Hồi Ức Chiến Trường K - Chương 31
Chương 22 Trong vòng vây
* * *
Chúng tôi bị quây chặt lại lúc khoảng 11h trưa, một nhóm nhỏ của địch đã vòng xuống phía sau của bên cánh phải chốt, chúng nằm giữa khoảng từ chuồng bò lên hầm cối. Từ đây chúng khống chế gần như cả đoạn mương dài này, trong không thể ra được và ngoài thì cũng không vào được. Trên D cho hỏa lực mạnh của D công phá khu vực địch đang án ngữ rồi điều lính C3 đánh vận động vào đuổi địch ra ngoài, quyết giữ con đường huyết mạch này cho C2.
Giờ đây sau 8h đồng hồ chiến đấu chúng tôi đã mất toàn bộ 3 hầm tiền tiêu, trung gian cánh trái và một hầm trung gian giữa, còn lại ta địch vẫn đang trong thế giằng co. Quân số chính thức C2 còn chưa đến 30 người bởi bên B1 của anh Thắng vừa bị tổn thất của lần tấn công thứ 3 của địch. Anh em thương binh tử sỹ được chuyển dần về C bộ và nhóm C bộ chúng tôi ngay tối hôm đó thay nhau ra gác và xây dựng hầm hố chiến đấu ngay bụi dứa dại bên bờ mương.
Ngày cũng như đêm sáng tối bất kể địch luôn bắn vào chốt chúng tôi, pháo cối đạn nhọn và cả đạn AT của địch nổ ầm ầm, anh em trong chốt bị thương một số do đạn địch bắn trong thời gian này, người của chốt C2 gồm nhiều bộ phận trong D được liên tục điều động lên trung gian giữa giữ hầm, anh em cùng sống, chiến đấu lẫn lộn giữa các C và bộ phận trực thuộc D với nhau.
Lính C3 và Lính Pốt đang ở thế giằng co, địch nằm trong một cái phum nhỏ cũ với vài nóc nhà và những hàng cây thốt nốt cùng bụi tre bên ngoài toàn ruộng trống, đêm đến chúng bò qua bên này bờ mương rồi lần theo đường dây thông tin hữu tuyến cắt đi của ta rất nhiều dây, lúc này mọi thông tin của C2 về D toàn phải dùng máy vô tuyến PRC25. Sang ngày hôm sau thì chúng dò ra số máy của chúng tôi trên những tần số phát sóng của máy PRC25 nên đã cho máy khác phá hết các sóng của lính C2 trên chốt. Anh Hùng lính thông tin trên D liên tục vặn chỉnh sóng trên nóc máy mà tìm cách bắt liên lạc với cấp trên, dù cố gắng nhất nhưng lúc này là không thể liên lạc được.
Chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với D, bên cánh trái của chốt vẫn có thể vào được nhưng không ai dám mạo hiểm đi vì bên đó mìn của ta và địch gài rất nhiều. Đám lính C2 trên tiền tiêu và trung gian cánh trái sau khi bật chốt đã chạy về phía sau qua hướng đó, chẳng biết họ đã chạy qua đó bằng kiểu gì mà không ai đá phải mìn cả. Có lẽ thần chết ngay sau lưng thì thần sống lại đứng trước mặt giang tay đón nhận, có thể trên đời này không bao giờ có điểm hết cho một vấn đề gì, chữ bế tắc tuyệt đối và tuyệt vọng là không thể có. Luôn có con đường sống cho những người lính trong tình thế tuyệt vọng.
Điều tôi thấy hết sức may mắn là họ đã chuyển được anh Lịch ra ngoài trận địa rồi đi viện F và trong thời gian rất ngắn anh được chuyển về Quân y viện 103 tại Hà đông, anh được cứu chữa kịp thời với thương tật là không bao giờ có thể cầm súng chiến đấu được nữa. C2 chúng tôi mất anh Lịch trong những trận chiến sau này là một tổn thất rất lớn của đơn vị, một người cán bộ đại đội dũng cảm gương mẫu đứng vào hàng số một của những cán bộ đại đội mà tôi đã từng gặp trong suốt cuộc đời quân ngũ. Một người anh cả của C2 đã từng dẫn dắt C2 chúng tôi đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt thời gian bảo vệ biên giới tây nam này và hôm nay anh chính thức giã từ vũ khí, là người lính đi qua 2 cuộc chiến tranh của Đất nước.
Khoảng gần một năm sau anh khập khiễng về đơn vị cũ lúc chúng tôi đang đóng quân tại núi Lovea để lấy giấy tờ ra Bắc. Số lính cũ của anh không còn bao nhiêu, gặp tôi khi đó vẫn làm liên lạc trên C bộ anh ôm chầm lấy thằng em. Trong thời gian chờ đơn vị cho giấy tờ về tuyến sau anh sinh hoạt cùng anh em trong đơn vị như những người lính khác, ai cũng yêu quý anh bằng tình cảm từ đáy lòng với người anh cả của đơn vị. Anh quấy động phong trào văn hóa văn nghệ, đêm cũng gác ngày cũng công tác như bình thường như bao anh em và khi anh trở ra Bắc anh đã để lại trong lòng anh em những tình cảm sâu nặng. Anh vẫn giữ câu nói của trên 30 năm về trước và hôm nay vẫn nói :
- Cha mẹ tôi sinh ra tôi một lần và thằng H... liên lạc của tôi năm xưa đã sinh ra tôi lần thứ hai.
Tôi thì chẳng bao giờ nghĩ về điều đó, điều tôi làm khi đó vì nhiệm vụ, vì đơn vị, vì trách nhiệm của bản thân, vì tất cả những người đồng đội của tôi và vì ông anh mà tôi rất yêu quý kính phục. Vậy thôi.
Sau 11h trưa ngày 12.12.1978 cả C2 chúng tôi còn không đến 30 người, họ nằm rải rác khắp tuyến chốt trong các khu vực còn lại của trận địa. Ngoài ra có thêm số anh em C1 do C phó Hồng chỉ huy cùng khẩu đội 12,8ly, như vậy là quân số chiến đấu còn thực sự trên trận địa khoảng trên 40 người. Trong số này anh em bị thương nhẹ rất nhiều, họ còn sức để cầm súng đánh nhau với lính Pốt đến cùng và họ cực kỳ ngoan cường chống trả địch với quân số đông hơn gấp nhiều lần và có đủ phương tiện pháo binh, cơ giới yểm trợđắc lực.
Anh em thương binh trong hầm C bộ chưa kịp chuyển ra những vết thương của họ không được chữa trị kịp thời nhiễm trùng sưng tấy đỏ, họ kêu gào ầm ỹ suốt cả ngày. Thuốc giảm đau cũng hết từ lâu, mỗi lần thấy mặt tôi về đến C bộ là họ gọi tiêm cho tao mũi thuốc giảm đau, người nói ngọt nịnh nọt tôi để tôi tiêm cho, người cáu lên chửi bới om xòm. Tôi thương anh em của mình lắm nhưng làm gì còn thuốc giảm đau mà tiêm. Anh Tỉnh vẫy tôi lại nói nhỏ vào tai :
- Cứ tiêm cho nó mũi nước cất, không được cái gì thì cũng được cái tinh thần, chúng nó cũng yên tâm được chăm sóc.
Một mẹo nhỏ của lính y tá trên chiến trường trong tình thế khó khăn, tôi thấy nó thế nào ấy nhưng vẫn phải làm, vậy là tôi lại tiêm cho anh em bị thương và nước cất thì không thiếu. Ba ngày sau chúng tôi mới ra được, lính C3 và D đã đánh bật được nhóm bọc hậu của địch giải vây cho anh em C2, C1 trên chốt, lúc đó vận tải D mới vào chuyển số thương binh này ra tuyến sau, họ không còn mấy người.
Chuyện thương binh tử sỹ trên chốt C2 khi đó có chuyện thằng Khoa bên B1. Khi anh Lịch bị thương, tôi vác anh Lịch chạy về tuyến sau, thằng Khoa cũng vận động về nhưng nó không theo đường của tôi mà chạy chéo về theo bờ mương thẳng hướng về C bộ. Nó bị những đường đạn bắn chi viện của anh em C1 từ phía sau bắn lên, khẩu RPD của C1 nằm bên bờ mương bắn khiếp lắm, nó lọt đúng vào vị trí đó nên dính một viên đạn ngay gót chân.
Vết thương không lớn nhưng chạm phần xương, nó tự tập tễnh bò về tuyến sau đi viện E, chẳng hiểu họ khám xét vết thương cho nó thế nào, ám khói cháy thịt ra sao mà họ không chữa cho nó rồi bắt ép nó phải nhận là đã tự thương. Không ai phân trần giải thích hộ nó được bởi những người có thể đứng ra bênh vực nó thì đang còn nằm trên chốt, nó thì không có lời gải thích nào hơn, cũng bởi vốn kiến thức nghèo ăn nói trình bày không gẫy góc :
- Tôi không tự thương, nếu tự thương thì phải tìm chỗ khác chứ ai đi bắn vào chân mình trong hoàn cảnh như vậy? Giữ lấy chân để còn chạy về chứ.
3 ngày trên viện E không ai đoái hoài gì đến vết thương của nó, cái chân nó đỏ dừ lên và thằng Khoa cũng kiên quyết không nhận là mình đã tự thương và quả thật nó có tự thương đâu mà nhận láo như vậy được, cuối cùng họ đã cắt đi cái chân của nó và tặng cho nó cái chân bằng gỗ. Khi chúng tôi được thay chốt về tuyến sau có người đã hỏi chúng tôi chuyện của thằng Khoa B1, chúng tôi đã xác nhận nó cùng chúng tôi chiến đấu lấy lại hầm trung gian giữa như thế nào.
Nó rất dũng cảm đánh hết mình như vậy thì không thể nói nó tự thương trong tình huống đó được. Nhưng chuyện đã rồi và chỉ có thằng Khoa là thiệt đơn thiệt kép. Khi quay về đơn vị lấy giấy tờ ra quân nó đã khóc với tôi chuyện đó, tôi chẳng thể an ủi gì nó hơn vì tôi cũng không hơn gì nó, cùng chung hoàn cảnh lính với nhau cả, thấp cổ bé họng.
Những ngày tiếp theo địch ít đánh vào chốt, cũng từ hầm hố bắn qua nhau thôi, hầm trung gian giữa ta có 2 hố chiến đấu, địch đang giữ một hố, rất gần nhau, hàng ngày địch và ta quăng lựu đạn qua hầm nhau. Pháo cối 2 bên vẫn bắn vào chốt nhau cả ngày. Đêm đến từng nhóm nhỏ của địch bò vào tập kích khiến lính ta luôn ở thế 100% chiến đấu. Ban ngày thay nhau cảnh giới và ngủ lấy sức.
Điều khiến lính khổ nhất là đói, tuyến sau không thể mang lên cơm nước cho chúng tôi được. Nhìn những cục cơm mấy ngày trước lăn lóc dưới công sự lẫn cùng bùn đất chỉ muốn ăn, nhưng nó đã thiu thối nhão nhét từ lâu rồi. Còn nước thì dưới ruộng uống thoải mái. Những ngày đầu thì còn bòn mót được cơm trên chốt do anh nuôi mang lên chưa ai kịp ăn, trong lúc đánh nhau nó đổ vãi lung tung, những cục cơm nắm lăn lóc dưới công sự hay hầm hào. Tôi mò sang bên hầm cánh phải thấy quả mướp trên cây xoài cụt mà không dám trèo lên hái phải chờ tối đến mới dám lên hái xuống ăn.
Chúng tôi không có gì để ăn, suốt mấy ngày anh nuôi không thể mang cơm lên chốt cho chúng tôi được. Chiều tối nào họ cũng nấu cơm rồi mang lên chuồng bò chờ kết quả thông đường để mang cơm vào cho chúng tôi. Cái lão anh nuôi Khúc văn Hồi đã khóc khóc mếu mếu mỗi khi không mang cơm lên chốt cho anh em được, lão ấy thương anh em trên chốt bởi biết rằng anh em của lão ấy lại phải nhịn đói thêm 24h nữa.
Phải sang đêm 13 rạng sáng 14.12.1978, một nhóm trinh sát D cùng công binh của E mới vào được chốt C2, họ mở được đường vào chốt từ hướng cánh trái. Đây là khoảng trống của ruộng đồng nên chỉ có thể vào chốt trong đêm tối còn ban ngày thì không ai có thể vào được qua hướng đó. Gần sáng 14.12 chúng tôi mới có cơm ăn, cơm nắm còn nóng với cá khô kho ăn ngon như giò lụa. Một số đạn hỏa lực cũng được chuyển vào chốt chi viện cho chúng tôi còn đạn nhọn thì chúng tôi không thiếu. Hình như trong đám anh em mò vào chốt có cả cán bộ của E, họ bám theo lên chốt nắm tình hình, trước khi trời sáng họ rút ra khi nào tôi không biết. Số thương binh đã được chuyển ra dần còn tử sỹ tạm thời bỏ lại chuyển ra sau.
Chúng tôi được tiếp sức để tiếp tục chiến đấu, chúng tôi hoàn toàn không cô đơn trong trận chiến này.
Tối đêm 15.12.1978 chúng tôi được thay chốt, C3 được rút toàn bộ trên chốt bên trái đường Nam Chóp giao lại chốt cho D8 về bên phải chốt Nam Chóp thay chốt cho chúng tôi. Anh em vận tải cáng thương binh tử sỹ đi rầm rập trên bờ mương, nhóm C2 chúng tôi mệt mỏi thất thểu mang vác vũ khí về đến cây đài trinh sát pháo. Các bộ phận khác cũng rút về tập trung tại đó.
Một B của C1 vẫn ở lại trên chốt cùng với C3 giữ chốt, số anh em này đã trải qua nhiều trận đánh trên tuyến chốt này, họ cũng quá mệt mỏi với những trận đánh và thương vong nhưng vì quá thiếu quân số nên không thể làm khác được. Quân số trở về của C2 chỉ còn lại chính thức 6 người so với số lượng 70 tay súng lên thay chốt vào đên 9.12.1978. 64 người quay về tuyến sau trước lúc thay chốt với nhiều lý do.
-Một số hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, phần lớn họ là những người quả cảm trong chiến đấu xả thân vì nước vì dân.
-Một số bị thương nặng hay bị thương nhẹ, họ là những người lính đã làm tất cả những gì có thể làm được cho bản thân họ, cho Tổ quốc cho đồng đội của họ.
-Một số đã bỏ chạy, họ bỏ chạy ngay từ giờ phút đầu tiên của trận đánh, họ chẳng vì ai cả mà họ chỉ vì chính bản thân họ.
6 người còn lại của C2 chúng tôi trở về có 4 người không hề thương tích dù là nhỏ nhất và 2 người bị thương nhẹ trong đó có tôi, tuy thương tích không có gì đáng nói nhưng cũng là đổ máu. Thương binh còn sống được chuyển ngay về viện trong đêm, tử sỹ để tạm bên ngã tư bờ mương cây đài trinh sát để văn thư các đơn vị nhận mặt làm công tác tử sỹ rồi chuyển về tuyến sau.
Tôi về ngang cây đài trinh sát pháo trong đêm tối, F trưởng Lê Nam Phong đang đứng tại đó đón chúng tôi, cũng chỉ nghe anh em nói F trưởng đang ở đây, không nhìn rõ mặt. Ông rút thuốc lá mời anh em tôi mỗi người một điếu, nhìn tử sỹ ta nằm đó một dãy tôi nghe ông nói :
- Đ..má thằng Miên, mày đánh các con tao thế này à?
Vị tư lệnh sư đoàn của chúng tôi thương lính của mình như con, ông đau xót cho những hy sinh mất mát của anh em C2 và D7 khi đó.
Chúng tôi đã hoàn thành được nhiệm vụ với nhiều mất mát hy sinh, tuy chúng tôi đã để mất một số hầm trên chốt nhưng không phải chúng tôi hèn nhát để thua trận mà chúng tôi đã phải chống trả một lực lượng địch đông hơn gấp nhiều lần và có pháo binh xe tăng thiết giáp yểm trợ. Dù để mất mmột số chốt với những vị trí quan trọng và những hy sinh mất mát là quá lớn của một đại đội nhưng chúng tôi vẫn là người chiến thắng, chiến thắng từ trận đánh đến ý chí chiến đấu. Chúng tôi luôn tự hào về những gì đã làm được từ trận đánh này, người chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam không bao giờ lùi bước trước kẻ thù dù chúng mạnh hơn chúng tôi gấp bao nhiêu lần.