Những Âm Mưu Từ Đảo Jekyll - Chương 01

Chương 1 HÀNH TRÌNH TỚI ĐẢO JEKYLL Cuộc họp bí mật diễn ra trên đảo Jekyll tại Georgia chính là nơi “thai nghén” ra ý tưởng Dự trữ Liên bang; sự ra đời của liên minh ngân hàng nhằm ngăn chặn sự cạnh tranh giữa các thành viên; chiến lược về cách thuyết phục Quốc hội và dân chúng rằng liên minh này là một cơ quan đại diện của chính phủ Mỹ. Nhà ga xe lửa New Jersey chìm trong cái lạnh buốt giá của đêm hôm đó. Những cơn mưa tuyết bất chợt đầu mùa rơi xuống quanh những ngọn đèn đường. Cơn gió tháng Mười Một thổi ù ù xuyên qua các tấm lợp nhà xưởng trên sân ga và tạo nên một âm thanh não nùng, kéo dài giữa những thanh xà. Lúc này đã gần mười giờ tối, nhà ga hầu như vắng tanh, ngoại trừ một vài hành khách đang hối hả để bắt kịp chuyến xe lửa cuối ngày lăn bánh về phương Nam. Vào năm 1910 này, xe lửa là phương tiện đi lại chủ yếu với hầu hết các toa đều được trang bị giường tầng. Tuy nhiên, những hành khách ít tiền thường bị xếp vào các toa xe được nối với phần đầu máy phía trước, nơi họ sẽ phải chịu đựng tiếng ồn lẫn khói động cơ mà không biết bằng cách nào luôn len lỏi qua những vết nứt không nhìn thấy. Một toa xe chuyên phục vụ ăn uống được bố trí ở giữa như một rào chắn tế nhị phân biệt hai tầng lớp hành khách. So với tiêu chuẩn hiện nay, bối cảnh lúc đó thật buồn tẻ. Ghế ngồi và nệm đều cứng với bề mặt bằng kim loại hoặc gỗ ghép. Màu sắc chủ yếu là xanh đậm và xám. Trong bước đi vội vã để bắt kịp đoàn tàu và để trốn khỏi cái giá lạnh của khí trời, ít ai nhận ra hoạt động ở phía cuối sân ga, nơi xuất hiện một cảnh tượng đáng chú ý tại một cổng ra vào hiếm khi được sử dụng vào giờ này. Ở khúc quanh cuối của đường ray là một toa xe dài khiến cho số ít hành khách nào trông thấy đều phải dừng bước và nhìn chăm chú. Đó là một toa xe có nước sơn đen bóng nổi bật với tay vịn bằng đồng được đánh bóng, loại đầu tròn uốn khung có chạm trổ. Các mành cửa sổ của toa xe đều được kéo xuống, nhưng nhìn qua cánh cửa mở, người ta có thể trông thấy ván sàn màu gụ, rèm cửa bằng nhung, những chiếc ghế bành sang trọng cùng một quầy rượu thượng hạng. Nhân viên phục vụ mặc những chiếc áo choàng trắng đang bận rộn với công việc thường nhật của mình và dễ dàng ngửi thấy mùi thơm của những điếu xì-gà đắt tiền. Trên sân ga, các toa xe đều được đánh số ở cuối toa để dễ nhận biết, song, với toa xe đẹp thế này, những con số là điều không cần thiết, vì ngay chính giữa một bên thành toa, người ta có thể dễ dàng nhận thấy một tấm bảng nhỏ gắn đúng một từ: ALDRICH. Đó là tên của Nelson Aldrich, một thượng nghị sĩ đến từ đảo Rhode, nhưng đã hết sức nổi tiếng ở New Jersey này. Năm 1910, ông là một trong những nhân vật quyền lực nhất ở Washington, D.C. và toa xe lửa cá nhân của ông thường xuất hiện tại các ga xe lửa ở New York và New Jersey trong suốt những chuyến công cán thường xuyên đến Phố Wall. Lúc này, tên tuổi của Aldrich đã vang xa hơn cả vị trí của một thượng nghị sĩ bởi ông được cân nhắc trở thành người phát ngôn của chính phủ về các hoạt động kinh doanh quan trọng. Với vai trò là đồng minh đầu tư của J.P. Morgan, ông nắm giữ một lượng lớn cổ phần về ngân hàng, sản xuất và cả những ngành phục vụ công cộng. Con rể của ông chính là John D. Rockefeller-con và sáu mươi năm sau, cháu trai của ông - Nelson Aldrich Rockefeller - đã trở thành Phó Tổng thống Mỹ. Khi đến nhà ga, hiển nhiên Aldrich phải là người chỉ huy của toa xe cá nhân này. Trong chiếc áo choàng lông thú dài cổ cao, đầu đội chiếc mũ phớt bằng lụa và cầm trên tay một cây ba-toong đầu bịt bạc, Aldrich sải những bước đi dài nhanh nhẹn trên sân ga cùng với thư ký riêng của mình, Shelton, và một đám người phục vụ phía sau đang chuyển những chiếc rương hành lý. Ngay khi vị thượng nghị sĩ này lên tàu thì một số hành khách khác cũng xuất hiện mang theo những túi hành lý có kiểu dáng giống hệt nhau. Người đàn ông cuối cùng mang theo hộp đựng súng săn, xuất hiện chỉ ít phút trước khi nhân viên nhà ga yêu cầu tất cả lên tàu. Trong khi hầu hết hành khách đều dễ dàng nhận ra Aldrich khi nhìn thấy ông ta sải bước trên sân ga thì những khuôn mặt còn lại đều rất xa lạ. Những kẻ lạ mặt đó được hướng dẫn đi tách rời nhau nhằm tránh các phóng viên, vì thế họ được hẹn gặp bên trong sân ga để làm ra vẻ như không biết nhau. Sau khi lên tàu, những người này cũng chỉ sử dụng tên họ của mình để nói chuyện nhằm tránh phát hiện ra danh tính của nhau. Kết quả của việc phòng xa này đã khiến cho ngay cả những nhân viên phục vụ trên toa xe cá nhân cũng như những người hầu khác đều không biết được tên của các vị khách này. Trên sân ga vang lên hai hồi còi báo hiệu từ phía toa đầu máy. Đột nhiên, một cảm giác di chuyển nhẹ nhàng xuất hiện, sự thú vị của một cuộc hành trình đã bắt đầu. Nhưng ngay khi vừa rời khỏi sân ga, đoàn tàu bỗng nhiên dừng lại rồi sau đó chuyển hướng và bắt đầu quay trở lại nhà ga trước sự ngạc nhiên của mọi người. Họ đã quên điều gì chăng? Hay có vấn đề gì với động cơ xe lửa? Sự tròng trành và tiếng ồn ở chỗ nối các toa xe chính là câu trả lời. Họ đã chọn một toa khác ở phía cuối đoàn tàu. Có thể là toa chở thư? Ngay sau đó, đoàn tàu lăn bánh trở lại, và tất cả mọi suy nghĩ đều tập trung vào cuộc hành trình phía trước cùng với những căn phòng chỉ có tiện nghi tối thiểu. Và khi các hành khách đã chìm sâu vào giấc ngủ hòa cùng tiếng chuyển động nhịp nhàng của những chiếc bánh xe bằng thép trên đường ray thì ít người dám mơ rằng, trên cùng chuyến xe lửa với họ, ở toa cuối là bảy người đàn ông đại diện cho một phần tư số tài sản ước tính trên toàn thế giới. Còn đây là danh sách của những người ngồi trên toa xe Aldrich đêm đó: 1. Nelson W. Aldrich, “người phụ trách” của Đảng Cộng hòa trong Thượng nghị viện, Chủ tịch ủy ban Tiền tệ Quốc gia (National Monetary Commission), đồng minh kinh doanh của J.P. Morgan, bố vợ của John D. Rockefeller-con. 2. Abraham Piatt Andrew, Trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ. 3. Frank A. Vanderlip, Chủ tịch National City Bank tại New York, một trong những ngân hàng quyền lực nhất lúc đó, đại diện cho William Rockefeller và ngân hàng đầu tư quốc tế Kuhn, Loeb & Company. 4. Henry P. Davision, cổ đông cấp cao của công ty J.P. Morgan. 5. Charles D. Norton, chủ tịch First National Bank của J.P. Morgan tại New York.[1] 6. Benjamin Strong, Giám đốc Bankers Trust Company của J.P. Morgan.[2] 7. Paul M. Warburg, cổ đông của Kuhn, Loeb & Company, đại điện cho triều đại ngân hàng Rothschild tại Anh và Pháp, và là em trai của Max Warburg, Giám đốc Hiệp hội ngân hàng của dòng họ Warburg tại Đức và Hà Lan. SỰ TẬP TRUNG CỦA CẢI Năm 1910, việc tập trung kiểm soát toàn bộ các nguồn lực tài chính đã được tăng lên rất nhiều. Tại Mỹ, có hai nhóm kiểm soát chính: nhóm Morgan và nhóm Rockefeller. Trong phạm vi hoạt động của từng nhóm là cả một mê cung gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng nhận trả và các hãng đầu tư. Ở châu Âu, quá trình tương tự đã được thực hiện, thậm chí còn sớm hơn và bị thâu tóm bởi nhóm Rothschild và nhóm Warburg. Ngày mồng 3 tháng 5 năm 1931, một bài báo xuất hiện trên tờ New York Times đã bình luận về cái chết của George Baker, một trong những đồng minh thân thiết nhất của Morgan như sau: “Các thành viên của Câu lạc bộ Đảo Jekyll đại diện cho một phần sáu tổng số của cải trên thế giới.” Sự ám chỉ này được dành riêng cho những người thuộc nhóm Morgan (những thành viên của Câu lạc bộ Đảo Jekyll) và không bao hàm nhóm Rockefeller hoặc các nhà tài chính châu Âu. Thế nhưng, việc ước tính rằng tổng số tài sản mà cả nhóm này nắm giữ chiếm tới một phần tư của cải thế giới thực sự vẫn còn rất khiêm tốn. Vào năm 1913, khi Đạo luật Dự trữ Liên bang (General Reserve Act) được thông qua thành luật, một tiểu bang của Quốc hội về Tiền tệ và Ngân hàng dưới sự chủ trì của Arsene Pujo bang Louisiana đã hoàn thành cuộc điều tra về sự tập trung quyền lực tài chính ở Mỹ. Pujo đã được cân nhắc trở thành người phát ngôn cho những quyền lợi về dầu lửa, phần không thể thiếu trong cuộc điều tra và làm tất cả những gì có thể để phá tan mọi sự nghe ngóng. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của ông, báo cáo cuối cùng của ủy ban này lại vô cùng tồi tệ: Ủy ban thấy hài lòng với những bằng chứng nhận được … rằng có một sự thống nhất và chia sẻ quyền lợi rõ ràng giữa một vài nhà lãnh đạo tài chính… điều tất yếu làm gia tăng nhanh chóng sự tập trung kiểm soát tiền bạc và tín dụng vào tay một số ít người này … Theo hệ thống phát hành và phân bổ cổ phiếu công ty của chúng ta, giới đầu tư không được mua cổ phiếu trực tiếp từ công ty. Và như vậy, cổ phiếu phải đi vòng từ công ty phát hành qua trung gian rồi mới đến tay nhà đầu tư. Điều này có nghĩa là: chỉ có những ngân hàng lớn hoặc chủ ngân hàng nắm quyền tiếp cận các nguồn lực tập trung được tạo ra từ tiền của người khác, trong các ngân hàng, các công ty ủy quyền và công ty bảo hiểm nhân thọ cũng như nắm quyền kiểm soát về cơ cấu tạo ra các thị trường và phân bổ cổ phiếu, mới có đủ quyền lực để đánh giá hoặc bảo đảm hoạt động của các đợt phát hành cổ phiếu quy mô lớn. Thông qua việc kiểm soát đối với các quỹ của những công ty công nghiệp và đường sắt, những người nào có đủ khả năng xác định được nơi nắm giữ an toàn cho các quỹ này, và từ đó tạo ra những nguồn tích trữ tiền lớn cho dân chúng chính là người có đủ tư cách để điều tiết những nguồn cung cấp đó cho những dự án mà họ quan tâm đồng thời ngăn chặn việc sử dụng chúng vào những mục đích mà họ không tán thành … Cũng về vấn đề này, khi cho rằng phần lớn các khoản dự trữ của các ngân hàng trong nước đã chảy vào những nguồn tích trữ tiền bạc và tín dụng này, rằng các nguồn dự trữ đó cũng là các đơn vị đại diện của các ngân hàng nước ngoài trong việc cho vay những nguồn quỹ thặng dư của ngân hàng tại thị trường vốn công duy nhất trong nước, rằng một nhóm nhỏ gồm các nhân vật cùng các đối tác và đồng minh của mình lúc này đã củng cố hơn nữa quyền lực đối với các nguồn lực của những tổ chức nói trên bằng cách nắm giữ một lượng lớn cổ phiếu thông qua sự bảo trợ hoặc tham gia vào hội đồng quản trị, chúng tôi bắt đầu nhận thấy điều gì đó về mức độ phát triển của việc thống trị và kiểm soát thực tiễn cũng như hiệu quả này đối với các tập đoàn tài chính, đường sắt và công nghiệp, chủ yếu trong vòng năm năm qua, và đó chính là mối nguy hại đối với sự thịnh vượng của đất nước.[3] Đó chính là bản chất của sự giàu sang và quyền lực mà đại diện là bảy nhân vật bí mật gặp gỡ trong đêm hôm đó trên toa xe cá nhân đầy xa xỉ của thượng nghị sĩ Aldrich. ĐIỂM ĐẾN - ĐẢO JEKYLL Chiều hôm sau, khi gần đến đích ở Raleigh, Bắc Carolina, đoàn tàu giảm tốc và sau đó dừng lại tại một đường tránh ngay bên ngoài ga cuối. Một cách nhanh chóng, nhân viên trên tàu đã tháo móc để chuyển toa cuối cùng sang đường ray bên cạnh và tiếp tục chuyển bánh, vài phút sau, khi hành khách đặt chân xuống sân ga cuối của cuộc hành trình, đoàn tàu của họ xuất hiện đúng như những gì đã được nhìn thấy ở ga đi. Họ không hề biết rằng những người bạn đường của mình trong đêm trước, ngay lúc này đang được nối vào một chuyến xe lửa khác và chỉ trong vòng một giờ, sẽ lại khởi hành về phương Nam. Nhóm chuyên gia tài chính tinh anh này đã trải qua một cuộc hành trình dài hơn nghìn cây số đến Atlanta, sau đó đến Savannah và cuối cùng là một thị trấn nhỏ ở Brunswick, Georgia. Song, có vẻ Brunswick không phải là điểm đến thật sự. Nằm bên bờ biển Đại Tây Dương, đây là một làng chài với dân cư chỉ vài nghìn người cùng với một cảng nhỏ nhưng tấp nập các hoạt động kinh doanh bông và gỗ xẻ. Tuy nhiên, vào thời đó, quần đảo Sea Island nằm chắn bão bên bờ biển từ Nam Carolina đến Florida thực sự đã trở nên nổi tiếng bởi những quần thể khách sạn nghỉ đông cho giới thượng lưu giàu có. Cách bờ biển Brunswick là một trong những hòn đảo mà mới đây J.P. Morgan cùng một vài đối tác kinh doanh của mình đã bỏ tiền mua lại nhằm biến nó thành nơi tránh những đợt rét rùng mình của phương Bắc, nơi họ có thể săn bắn vịt trời hoặc hươu, nai vào mùa thu và mùa đông. Hòn đảo đó có tên là Đảo Jekyll. Khi dừng lại tại một ga nhỏ Brunswick, toa xe cá nhân của Aldrich đã gây ra sự chú ý. Những lời bàn tán đã nhanh chóng bay đến văn phòng tòa soạn tờ tuần báo của thị trấn này khiến cho một số phóng viên của tòa báo đã tiếp cận và bắt đầu đặt ra các câu hỏi trong khi cả nhóm đang chờ để chuẩn bị xuống tàu thủy. Những khách mời của Ngài Aldrich này là ai? Tại sao họ lại ở đây? Có điều gì thực sự đặc biệt đang diễn ra chăng? Davison, một trong những nhân vật sở hữu đảo Jekyll và quá quen thuộc với tòa báo địa phương, đã giải thích với cánh phóng viên rằng những người này thực sự chỉ là những người bạn thân và họ tới đây đơn giản để giải trí bằng cách săn bắn vịt trời. Nhận thấy chẳng có tin tức gì thực sự nổi bật trong sự kiện này, đám phóng viên đã trở về văn phòng tòa soạn với tâm trạng thỏa mãn bởi lời giải thích hợp lý. Thậm chí, ngay cả sau khi đã đến được hòn đảo tụ họp ngoài xa như vậy, bí mật vẫn được giữ kín. Trong chín ngày liền, các nhân vật này chỉ gọi nhau bằng tên họ chứ không phải tên riêng. Tất cả các viên phục vụ và quản gia làm việc toàn thời gian cũng được cho nghỉ phép và một đội ngũ nhân viên hoàn toàn mới đã qua thẩm tra cẩn thận được điều đến. Điều này nhằm đảm bảo tuyệt đối rằng không một gia nô nào có thể nhận ra danh tính của các vị khách mời. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, thật khó tưởng tượng được bất kỳ sự kiện nào trong lịch sử - kể cả việc chuẩn bị cho chiến tranh - lại được che đậy khỏi sự nhòm ngó của công chúng một cách hết sức bí ẩn đến như thế. Mục đích của cuộc họp trên đảo Jekyll không phải để săn bắn vịt trời. Nói một cách đơn giản, họ đến đây là để cùng tiến tới một sự nhất trí về cấu trúc và hoạt động của liên minh ngân hàng. Đúng với mong muốn của tất cả những người tham dự, mục đích của liên minh này là nhằm tối đa hóa các khoản lợi nhuận bằng cách giảm thiểu sự cạnh tranh giữa các thành viên, gây khó khăn cho những đối thủ cạnh tranh mới muốn tham gia vào lĩnh vực này đồng thời sử dụng quyền lực cảnh sát quốc gia để bắt họ tuân theo thỏa thuận của tổ chức lũng đoạn này. Và quả thực, theo những điều khoản đặc biệt hơn, mục đích và kết quả thật sự của cuộc họp lần này là nhằm đưa ra được bản kế hoạch chi tiết về Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System). CÂU CHUYỆN ĐƯỢC XÁC NHẬN Nhiều năm sau sự kiện đó, các nhà giáo dục, phê bình và sử học đều phủ nhận sự tồn tại của cuộc họp trên đảo Jekyll. Thậm chí ngày nay, quan điểm chung đều cho rằng cuộc họp đó không có gì quan trọng và chỉ có những kẻ mắc chứng hoang tưởng mới cố nghĩ ra bất kỳ điều gì ngoài sự thật ấy. Bởi chính Ron Chernow đã viết: “Cuộc họp trên đảo Jekyll đã trở thành cội nguồn của hàng nghìn học thuyết mang tính âm mưu.”[4] Và dần dần theo thời gian, câu chuyện đã được chắp nối lại với nhau một cách vô cùng chi tiết cũng như được chính những người tham gia cuộc họp đó chỉ ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Hơn nữa, nếu điều họ nói về chính mục đích và hành động của mình không tạo thành một âm mưu tuyệt hảo thì cũng vẫn mang chút ý nghĩa nào đó. Sự tiết lộ đầu tiên liên quan đến cuộc họp này được tìm thấy trong một bài báo đăng trên tờ Leslie’s Weekly năm 1916 của một phóng viên tài chính trẻ tuổi với bút danh B.C. Forbes, người sau này sáng lập ra Forbes Magazine. Bài báo chủ yếu tán dương Paul Warburg và có vẻ như chính điều đó đã khiến cho Warburg để lộ ra câu chuyện trong suốt những buổi nói chuyện với tác giả. Dù sao đi nữa thì ngay đoạn mở đầu đã chứa đựng một nội dung tóm tắt đầy ấn tượng với độ chính xác cao về cả bản chất lẫn mục đích của cuộc họp đó: Hãy hình dung về một nhóm ông chủ ngân hàng giàu có nhất nước đang lén lút rời khỏi New York trên một toa xe lửa tư nhân trong sự bao trùm của bóng tối, vội vã đi cả nghìn cây số xuống phía Nam, cùng xuống một chiếc tàu thủy bí ẩn và tiếp tục tới một hòn đảo ngoài khơi cùng một vài kẻ hầu hạ để sống cả một tuần với việc giữ bí mật khắt khe đến mức không một ai được phép sử dụng tên riêng nhằm tránh sự nhận biết của đám người hầu - những người có thể vạch trần với thế giới về cuộc hành trình bí ẩn nhất, kỳ lạ nhất trong lịch sử tài chính Mỹ. Tôi không hề bịa đặt mà đang để cho cả thế giới thấy lần đầu tiên, một câu chuyện có thật về bản báo cáo tiền tệ của ngài Aldrich nổi tiếng, thứ vốn được xem như nền tảng sáng lập ra hệ thống tiền tệ mới của chúng ta, đã được viết ra như thế nào.[5] Năm 1930, Paul Warburg đã viết một cuốn sách đồ sộ dày 1750 trang với tựa đề The Federal Reserve System, Its Origin and Growth (Tạm dịch: Cục Dự trữ Liên bang, nguồn gốc và sự phát triển). Trong cuốn sách này, ông ta đã mô tả cuộc họp và mục đích của nó nhưng lại không đề cập đến địa điểm hoặc danh tính của những người tham dự. Tuy nhiên, ông ta đã viết: “Toàn bộ nội dung của cuộc thảo luận ấy được giữ kín. Thậm chí, trên thực tế, nó còn trở thành một cuộc họp không được công khai thừa nhận.” Và trong một chú thích, ông bổ sung: “Dù mười tám năm trôi qua kể từ thời điểm đó nhưng tôi vẫn không được tự do mô tả lại cuộc thảo luận thú vị nhất này bởi nó liên quan đến bí mật mà thượng nghị sĩ Aldrich đã yêu cầu tất cả các thành viên tham dự phải giữ kín.”[6] Ba mươi tư năm sau, một cách nhìn nhận sâu sắc thú vị đối với sự tham gia của Paul Warburg tại cuộc họp trên đảo Jekyll đã được tiết lộ trong cuốn sách của James - con trai ông. James từng được Franklin D. Roosevelt bổ nhiệm làm Giám đốc Ngân sách trong suốt thời kỳ xảy ra chiến tranh thế giới II và là Giám đốc Văn phòng Thông tin chiến tranh. Trong cuốn sách của mình, James mô tả cha mình - một người không hề biết gì về súng ống - đã mượn khẩu súng săn của một người bạn và mang theo lên xe lửa nhằm ngụy trang như một tay săn bắn vịt trời.[7] Và chi tiết thú vị này của câu chuyện đã được chứng minh thêm trong phần tiểu sử chính thức về thượng nghị sĩ Aldrich do Nathaniel Wright Stephenson viết: Mùa thu năm 1910, sáu người đàn ông [kể cả Aldrich] đã cùng xách súng đi săn vịt trời. Họ làm như thế là để nói với cả thế giới rằng mục đích chuyến đi của họ chỉ đơn giản có vậy thôi. Warburg, một trong số những người đồng hành hôm đó, đã giải thích hết sức khôi hài về cảm giác của mình khi bước chân lên toa xe lửa cá nhân của Aldrich tại thành phố Jersey dưới cái vỏ của một tay săn vịt trời. Điều khôi hài ở đây là, trong suốt đời mình, ông ta chưa bao giờ bắn được một con vịt trời nào và cũng chẳng thích thú gì với trò săn bắn… Săn bắn vịt trời chỉ là cái cớ.[8] Sau đó, Stephenson tiếp tục mô tả về cuộc chạm trán tại nhà ga Brunswick. Ông kể rằng: chỉ một lát sau khi cả nhóm tới đó, tay trưởng ga đã bước vào bên trong toa xe và khiến mọi người kinh ngạc bởi sự hiểu biết tường tận của ông ta về danh tính từng người trên xe. Thậm chí, ông ta còn khiến cho tình hình trở nên tồi tệ hơn khi thông báo rằng một nhóm phóng viên đang chờ sẵn ngoài cửa ga, một tình huống buộc Davision phải đứng ra giải quyết. Ông ta gọi tay trưởng ga lại và nói: “Này ông bạn già, hãy ra cửa và tôi sẽ kể cho ông nghe một câu chuyện.” Không ai quả quyết biết rõ câu chuyện được kể trên sân ga buổi sáng hôm đó là gì, nhưng một lát sau, khi quay lại với nụ cười rạng rỡ, Davision đã nói một cách chắc chắn rằng: “Mọi chuyện đã xong. Họ sẽ chẳng còn quấy rầy chúng ta nữa.” Stephenson viết tiếp: “Quả đúng là như vậy. Mọi thứ diễn ra hết sức bình thường. Đám phóng viên đã giải tán và bí mật về cuộc hành trình bí ẩn này vẫn không hề bị tiết lộ. Không ai hỏi xem ông ta đã giải quyết bằng cách nào, mà chính ông ta cũng chẳng muốn kể về điều đó.”[9] Trong một bài viết đăng trên tờ Saturday Evening Post, số ra ngày mồng 9 tháng 2 năm 1935, Frank Vanderlip đã viết: Mặc dù ủng hộ quan điểm về giá trị đối với xã hội và tính công khai trong các hoạt động của các doanh nghiệp nhưng vẫn có một dịp gần cuối năm 1910 mà tôi buộc phải giữ bí mật - quả thật là phải giấu giếm - như bất kỳ một kẻ âm mưu nào… Tôi cảm thấy sẽ không cường điệu chút nào khi nói rằng cuộc hành trình bí mật của chúng tôi tới đảo Jekyll là duyên cớ về sự “thai nghén” thực sự của những gì mà rốt cuộc đã trở thành Cục Dự trữ Liên bang… Chúng tôi đã được yêu cầu không sử dụng tên riêng để nói chuyện cũng như tránh ăn tối cùng nhau trong đêm khởi hành. Ngoài ra, chúng tôi còn được chỉ thị về giờ đến của từng người một cách kín đáo và kịp với giờ tàu của ga xe lửa ở vùng duyên hải New Jersey thuộc Hudson, nơi toa xe cá nhân của thượng nghị sĩ Aldrich đã được nối vào cuối đoàn tàu hướng về phương Nam… Và khi đã ở trên toa xe cá nhân đó, chúng tôi bắt đầu tuân thủ điều cấm kỵ về việc sử dụng tên riêng, chúng tôi gọi nhau bằng những cái tên như “Ben”, “Paul”, “Nelson” hay “Abe” - chính là Abraham Piatt Andrew. Davision và tôi thậm chí còn phải giấu cả tên riêng của mình, chúng tôi sử dụng một cách gọi khác: Davision thành Wilbur còn tôi là Orville, giống như tên của anh em nhà Wright - những người tiên phong trong ngành hàng không… Những người phục vụ và toàn bộ nhân viên trên chuyến xe lửa đó có thể nhận ra danh tính của một vài người trong số chúng tôi nhưng không biết hết được tất cả. Chính tất cả những cái tên đó nếu xuất hiện cùng nhau hẳn sẽ khiến cho cuộc hành trình bí ẩn của chúng tôi trở nên có ý nghĩa ở Washington, Phố Wall, thậm chí ở London, bởi chúng tôi đều biết rằng, cuộc gặp gỡ đó không thể bị tiết lộ, nếu không toàn bộ thời gian và công sức sẽ trở thành công cốc. Và nếu như sự việc có bị vạch trần công khai rằng nhóm cá biệt chúng tôi từng cùng thống nhất tạo ra một loại tiền giấy thì nó cũng không có cơ hội được Quốc hội thông qua.[10] CƠ CẤU LÀ MỘT HIỆP HỘI THUẦN TÚY Thành phần tham gia cuộc họp trên đảo Jekyll là một ví dụ kinh điển về cơ cấu hiệp hội. Khái niệm này chỉ một nhóm gồm các doanh nghiệp độc lập cùng tham gia phối hợp với nhau về sản xuất, định giá hoặc tiếp thị giữa các thành viên. Mục đích của một tổ chức như vậy là để giảm bớt sự cạnh tranh và theo đó gia tăng lợi nhuận. Điều này được thực hiện thông qua việc chia sẻ độc quyền đối với lĩnh vực mà họ hoạt động nhằm ép dân chúng phải trả giá cao hơn cho hàng hóa hoặc dịch vụ của họ so với mức giá nếu được áp dưới hình thức cạnh tranh tự do mậu dịch. Và đây là những đại diện của tổ hợp ngân hàng đứng đầu thế giới: Morgan, Rockefeller, Rothschild, Warburg và Kuhn Loeb. Dù luôn cạnh tranh nhau và có chút nghi ngờ về lòng tin của nhau cũng như khả năng điều khiển hết sức khéo léo để giành được vị thế thuận lợi trong bất kỳ thỏa thuận nào nhưng những đại diện sừng sỏ này vẫn luôn được thúc đẩy bởi một khát khao mạnh mẽ là đánh bại kẻ thù chung của họ - sự cạnh tranh. Năm 1910, số ngân hàng trên toàn nước Mỹ gia tăng với tốc độ phi thường. Trên thực tế, con số này cao gấp đôi so với mức hơn 20.000 ngân hàng chỉ trong vòng mười năm trước. Hơn nữa, hầu hết những ngân hàng này được thành lập ở miền Nam và miền Tây nên khiến cho các ngân hàng ở New York phải chấp nhận mất dần thị phần của mình. Vào những năm 1880, phần lớn các ngân hàng đều là ngân hàng quốc gia, có nghĩa là hiến chương của các ngân hàng này đều được chính phủ liên bang phê duyệt, được tọa lạc tại những thành phố lớn và được luật pháp cho phép phát hành tiền giấy riêng của mình. Dẫu vậy thì đến đầu năm 1896, số ngân hàng phi quốc gia cũng đã tăng lên đến 61% và nắm giữ trong tay 54% tổng lượng tiền gửi tại các ngân hàng trong cả nước, cho tới năm 1913, khi Đạo luật Dự trữ Liên bang được thông qua, con số này đã là 71% các ngân hàng phi quốc gia nắm giữ 57% tổng lượng tiền gửi tại các ngân hàng trong cả nước.[11] Và như vậy, trong mắt của những tay săn vịt trời đến từ New York thì đây chính là một chiều hướng phải được đảo ngược lại hoàn toàn. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng xuất hiện từ một xu thế mới trong ngành là tạo nguồn vốn cho tăng trưởng tương lai từ lợi nhuận chứ không phải từ vốn vay. Đây là kết quả tất yếu của lãi suất thị trường tự do nhằm ổn định mức cân đối thực giữa nợ và tiết kiệm. Các mức lãi suất đủ thấp để thu hút những người vay nghiêm túc tin tưởng vào thành công của các dự án kinh doanh và khả năng thanh toán với ngân hàng nhưng cũng đủ cao đối với các dự án đầu tư phù phiếm hoặc những dự án có sự lựa chọn khác về nguồn tài chính chẳng hạn như vốn cá nhân. Thế nên, mức cân đối giữa nợ và tiết kiệm đó là kết quả của nguồn cung tiền hạn chế. Hơn nữa, chúng ta sẽ thấy rằng: nếu không vì một giới hạn với quy trình này thì các ngân hàng đều đã có thể tạo ra những khoản vay lớn hơn các khoản tiền gửi mà họ thực sự nắm giữ. Và cuối cùng thì giới hạn đó được quyết định bởi chính kho dự trữ vàng mà ngân hàng nắm giữ. Vậy nên, khoảng từ năm 1900 đến năm 1910, 70% nguồn tài chính dành cho tăng trưởng doanh nghiệp ở Mỹ được tạo ra trong nội bộ, khiến cho ngành công nghiệp ngày càng ít phụ thuộc hơn vào các ngân hàng.[12] Thậm chí, chính phủ liên bang cũng trở nên thịnh vượng do có một lượng dự trữ vàng khá lớn nhờ hệ thống đồng tiền xanh (Greenbacks) - loại tiền giấy được phát hành trong suốt cuộc Nội chiến - và đã nhanh chóng giảm bớt được các khoản nợ của quốc gia. Đây là một xu hướng khác cần phải được ngăn chặn. Những gì các chủ ngân hàng - cũng như nhiều nhà kinh doanh - mong muốn chính là can thiệp vào thị trường tự do và làm giảm sự cân bằng lãi suất nhằm đẩy khoản nợ lên cao hơn so với tiền tiết kiệm. Mà để đạt được điều này, các ngân hàng phải cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ giữa nguồn cung ứng tiền với vàng cũng như tạo ra nhiều tiền hơn, hoặc như cách họ đã mô tả nó là mềm dẻo hơn. BÓNG MA CỦA VỠ NỢ NGÂN HÀNG Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất xuất hiện không phải từ các đối thủ hoặc sự hình thành vốn tư nhân mà là từ đại đa số dân chúng theo động thái thường được các chủ ngân hàng gọi là đổ xô tới ngân hàng đòi rút tiền ra. Sở dĩ có hiện tượng này là do khi chấp nhận một khoản tiền gửi của khách hàng, các ngân hàng đã “cân đối” tài khoản của anh ta bằng cách chuyển vào đó một số dư, tương đương với lời hứa sẽ trả lại khoản tiền gửi bất cứ khi nào được yêu cầu. Tương tự, khi mượn tiền của ngân hàng, khách hàng cũng nhận được một số dư tài khoản, thứ thường được rút ra ngay lập tức để thỏa mãn mục đích đi vay. Và chính điều này tạo ra một quả bom nổ chậm, bởi vì vào thời điểm đó, ngân hàng đưa ra nhiều lời hứa “thanh toán-theo-nhu cầu” hơn so với lượng tiền hiện có trong ngân khố. Mặc dù khách hàng gửi tiền nghĩ rằng họ có thể rút tiền bất kỳ lúc nào nhưng trên thực tế số tiền đó đã được cho khách hàng khác vay và bởi vậy mà không có sẵn trong ngân hàng. Vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn bởi thực tế rằng các ngân hàng được phép cho vay thậm chí nhiều hơn cả số tiền gửi mà họ nhận được. Cơ chế để thực hiện nhiệm vụ dường như bất khả thi này sẽ được mô tả trong chương sau, song thực tế hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện đại là những lời hứa-thanh toán thường vượt xa những khoản tiền gửi tiết kiệm theo tỷ lệ mười-trên-một. Và vì thực chất chỉ có 3% lượng tiền gửi này được giữ lại trong kho dự trữ dưới dạng tiền mặt - số còn lại đã được chuyển thành các khoản cho vay và đầu tư lớn hơn - nên khả năng giữ đúng lời hứa của ngân hàng đã vượt quá tỷ lệ ba trăm-trên-một.[13] Như vậy, chừng nào số tiền gửi được rút ra cùng một lúc với mức tỷ lệ phần trăm nhỏ thì sẽ không ai nhận ra được điều đó. Nhưng nếu niềm tin của dân chúng bị lung lay và chỉ cần thêm vài phần trăm người gửi tìm cách rút tiền của mình ra thì mưu đồ này cuối cùng sẽ bị bại lộ. Một khi không thể giữ đúng tất cả những lời hứa của mình thì chắc chắn ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và điều tất yếu diễn ra sau đó là sự phá sản. THẤT THOÁT TIỀN TỆ Kết quả tương tự cũng có thể xảy ra - và thường xảy ra trước khi có Cục Dự trữ Liên bang - mà không cần nhiều người gửi tiền phải đổ xô tới ngân hàng đòi rút tiền. Thay vì rút tiền trực tiếp tại ngân hàng, người gửi sẽ viết séc thanh toán để chi trả cho hàng hóa và dịch vụ của mình, còn người nhận sẽ mang tấm séc đó đến gửi ở một ngân hàng khác. Nếu ngân hàng đó chính là ngân hàng phát hành séc thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp và chẳng cần phải chuyển bất kỳ khoản tiền thực nào ra khỏi kho dự trữ. Nhưng nếu người sở hữu tấm séc mang sang một ngân hàng khác thì tấm séc đó cũng nhanh chóng quay trở lại ngân hàng phát hành và việc thanh toán sẽ được yêu cầu giữa các ngân hàng. Tuy nhiên, đây không phải là mối quan hệ một chiều bởi khi ngân hàng phát hành nhận được yêu cầu thanh toán từ ngân hàng nhận séc thì ngân hàng nhận séc cũng đang chuyển séc và yêu cầu thanh toán từ ngân hàng phát hành. Như vậy, miễn là lượng tiền của cả hai chiều cân bằng nhau thì mọi thứ có thể được kiểm soát bằng nghiệp vụ kế toán đơn giản. Nhưng nếu lượng tiền đó không cân đối thì một trong hai ngân hàng trên sẽ phải gửi một khoản tiền thực sự cho ngân hàng còn lại để bù vào khoản chênh lệch. Nếu khoản tiền được yêu cầu vượt quá tỷ lệ phần trăm so với tổng số tiền gửi của ngân hàng đó thì kết quả cũng giống như việc nhiều người gửi tiền đổ xô đến ngân hàng đòi rút tiền cùng một lúc. Chỉ có điều người gửi tiền lúc này là các ngân hàng khác chứ không phải dân chúng nên yêu cầu như vậy được gọi là thất thoát tiền tệ. Năm 1910, nguyên nhân phổ biến nhất khiến một ngân hàng phải tuyên bố phá sản do thất thoát tiền tệ là vì ngân hàng đó đã theo đuổi một chính sách cho vay liều lĩnh hơn so với các đối thủ cạnh tranh của mình. Với chính sách này, ngân hàng càng cần nhiều tiền hơn để cho vay. Việc cho vay tới 90% lượng tiền gửi của khách hàng (tức là cứ mười đô-la chỉ giữ lại một đô-la) vốn là việc làm đầy nguy hiểm nhưng hầu như luôn được chứng minh là phù hợp. Song, một số ngân hàng còn liều lĩnh hơn khi cố tiến gần sát mức giới hạn đó bằng cách cho vay đến 92%, 95% hoặc thậm chí 99%. Xét cho cùng, phương thức kiếm tiền của một ngân hàng là đi thu lãi và cách duy nhất để làm được điều đó là tạo ra các khoản cho vay. Càng nhiều khoản vay càng tốt. Vì thế, có một thực tiễn là một số ngân hàng liều lĩnh hơn áp dụng phương pháp “tăng lượng tiền cho vay”, hay nói cách khác là đẩy tỷ lệ dự trữ của chính họ xuống mức thấp nhất. ĐIỀU KHÔNG TƯỞNG CỦA NHỮNG ÔNG CHỦ NGÂN HÀNG Nếu tất cả các ngân hàng bị buộc phải đưa ra các khoản vay bằng với tỷ lệ dự trữ của họ như các ngân hàng khác thì dẫu tỷ lệ đó có nhỏ đến đâu, số lượng tấm séc cần được thanh toán giữa các ngân hàng sẽ cân đối về lâu dài, và như vậy, khả năng thất thoát tiền tệ lớn sẽ không bao giờ xảy ra. Dưới một hệ thống như thế, toàn bộ ngành ngân hàng có thể bị sụp đổ, nhưng không phải các ngân hàng riêng lẻ - hay ít nhất không phải những ngân hàng thành viên của hiệp hội. Theo sự thống nhất đó, không một ngân hàng đơn lẻ nào có thể bị lên án vì không hoàn thành nghĩa vụ của mình. Thay vào đó, sự lên án có thể được chuyển sang cho “nền kinh tế”, “chính sách nhà nước”, “tỷ lệ lãi suất”, “thâm hụt thương mại”, “giá trị trao đổi của đồng đô-la” hoặc thậm chí do chính “hệ thống tư bản chủ nghĩa”. Song tới năm 1910, một điều không tưởng như vậy của các ông chủ ngân hàng vẫn chưa được tạo ra. Nếu ngân hàng phát hành bắt đầu sử dụng các khoản dự trữ của mình để cho vay với tỷ lệ lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh thì số lượng tấm séc mà nó phải thanh toán về sau cũng sẽ lớn hơn. Do đó, nếu vẫn theo đuổi chính sách cho vay liều lĩnh hơn, ngân hàng sẽ phải viết séc dựa trên chính nguồn dự trữ của mình để thanh toán cho những ngân hàng thận trọng hơn và khi những nguồn tiền này bị vét cạn thì lẽ dĩ nhiên là nó buộc phải tuyên bố phá sản. Nhà sử học John Klein đã nói rằng: “Những cơn khủng hoảng tài chính của năm 1873, 1884, 1893 và 1907 nói chung là kết quả tất yếu của việc các ngân hàng quốc gia tạo ra một lượng tiền gửi quá mức và dự trữ theo kiểu hình tháp. Những cuộc khủng hoảng này được châm ngòi bởi sự thất thoát tiền tệ xảy ra trong các giai đoạn phát triển khá thịnh vượng, thời điểm khi các ngân hàng tăng lượng tiền cho vay.”[14] Hay nói cách khác, “những cuộc khủng hoảng” này và tình trạng vỡ nợ của các ngân hàng diễn ra sau đó không phải do các yếu tố tiêu cực của nền kinh tế mà do chính sự thất thoát tiền tệ ở những ngân hàng, nơi cho vay nhiều đến mức không còn một khoản tiền dự trữ nào cả. Các ngân hàng vỡ nợ không phải do hệ thống ngân hàng hoạt động yếu kém mà ngược lại, hệ thống ngân hàng sụp đổ là do các ngân hàng còn non trẻ. Đây chính là một vấn đề nổi cộm khác đã khiến bảy nhân vật kia vượt cả ngàn cây số để đến một hòn đảo nhỏ bé ngoài khơi vùng Georgia. Dù mỗi người trong số họ đều là một đối thủ cạnh tranh gay gắt tiềm ẩn nhưng điều quan trọng nhất trong suy nghĩ của mỗi người vẫn là những cuộc khủng hoảng và thực trạng vỡ nợ của 1.748 ngân hàng trong hai thập kỷ trước. Thế nên, dù thế nào họ cũng phải tham gia họp bàn để cùng vạch ra cách thức cho phép các ngân hàng tạo ra nhiều lời hứa thanh toán-theo-nhu cầu hơn so với khả năng thực tế. Để làm được điều này, họ phải tìm cách buộc tất cả các ngân hàng cùng duy trì một khoảng cách giống nhau và khi những thảm họa không thể tránh khỏi xảy ra, chắc chắn họ sẽ thoát khỏi sự lên án của dân chúng. Dĩ nhiên, lúc đó nó sẽ trở thành vấn đề của nền kinh tế quốc gia hơn là thực tế hoạt động ngân hàng tư nhân và chính phủ buộc phải sử dụng đến tiền thuế thay vì các nguồn tài chính dự trữ để thanh toán các khoản thua lỗ. Tới đây, chúng ta đều nhận thấy được những thách thức chính mà nhóm tinh anh đã phải đối mặt khi tụ họp trên đảo Jekyll: 1. Làm cách nào để ngăn chặn được sức ảnh hưởng ngày càng tăng của các ngân hàng đối thủ nhỏ lẻ và đảm bảo được rằng sự kiểm soát đối với các nguồn tài chính của quốc gia vẫn nằm trong tay những đại diện hiện có mặt. 2. Làm cách nào để tạo ra nguồn cung ứng tiền mềm dẻo hơn nhằm đảo ngược chiều hướng hình thành vốn tư nhân và đoạt lại thị trường cho vay lãi đối với nền công nghiệp. 3. Làm cách nào để chuyển các nguồn dự trữ riêng của các ngân hàng quốc gia thành một nguồn dự trữ lớn để tất cả các ngân hàng sẽ được thúc đẩy thực hiện các tỷ lệ cho vay/tiền gửi giống nhau. Điều này sẽ bảo vệ được ít nhất một số ngân hàng khỏi tình trạng thất thoát tiền tệ và rút tiền ồ ạt. 4. Cuối cùng, nếu điều này dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống ngân hàng thì nên làm cách nào để chuyển những khoản lỗ từ tay các chủ ngân hàng sang những người nộp thuế. HIỆP HỘI CẦN CÓ MỘT CÁI TÊN Mọi người đều biết rằng giải pháp cho tất cả các vấn đề này là một cơ chế hiệp hội, một dạng tổ chức đã được thành lập và đưa vào hoạt động ở châu Âu. Như đối với tất cả các dạng liên đoàn khác, hiệp hội này phải được thành lập bằng pháp chế và được duy trì bằng quyền lực của chính phủ dưới cái mác bảo vệ người tiêu dùng. Vì thế, nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này đối với bảy nhân vật đó có thể được giải thích bằng mục tiêu thứ năm: 5. Làm cách nào để thuyết phục Quốc hội rằng kế hoạch đó thực sự là phương sách để bảo vệ dân chúng. Đây quả là một nhiệm vụ tinh vi bởi người Mỹ không thích khái niệm về một hiệp hội. Ý tưởng về các doanh nghiệp kinh doanh cùng tham gia ấn định các mức giá và ngăn chặn sự cạnh tranh là điều hoàn toàn xa lạ đối với hệ thống tự do mậu dịch. Và như thế, ý tưởng đó có thể không bao giờ lừa được dân chúng. Nhưng nếu không sử dụng từ hiệp hội/liên đoàn và nếu âm mưu này được mô tả bằng những từ ngữ hoàn toàn trung lập - thậm chí có sức thuyết phục - thì họ đã giành được nửa phần chiến thắng. Do đó, quyết định đầu tiên là phải làm theo cách đã được thông qua ở châu Âu. Tức là từ nay trở đi, hiệp hội đó sẽ hoạt động như một ngân hàng trung ương. Và ngay cả cụm từ đó cũng phải được thể hiện theo cách chung chung. Vì mục đích quan hệ công chúng và pháp chế, họ buộc phải đưa ra một cái tên tránh dùng từ ngân hàng song lại phải kết nối được với hình ảnh của chính phủ liên bang. Vả lại, để tạo ấn tượng rằng không có bất kỳ sự tập trung quyền lực nào, họ phải thiết lập các chi nhánh khu vực của tổ chức lũng đoạn này và biến mỗi nơi này thành một điểm giao dịch chính. Trong cuốn tiểu sử của Aldrich, Stephenson đã viết: “Aldrich đã tham gia cuộc thảo luận trên đảo Jekyll một cách hết sức tích cực với ý tưởng về một ngân hàng trung ương. Khao khát của ông ta chính là “cấy ghép” hệ thống của một trong những ngân hàng lớn nhất châu Âu, cụ thể là ngân hàng Anh, vào cơ thể nước Mỹ.”[15] Song, động cơ chính trị đòi hỏi những kế hoạch như vậy phải được che giấu khỏi sự quan tâm của dân chúng. Như John Kenneth Galbraith đã giải thích: “Việc thành lập không chỉ một mà nhiều ngân hàng trung ương chính là chủ trương khôn ngoan của ông ta [Aldrich] đối với dân chúng, đồng thời còn tránh được cụm từ ngân hàng.”[16] Thế nên, ngoại trừ Aldrich, tất cả những người có mặt đều là các ông chủ ngân hàng, song chỉ có một chuyên gia về mô hình ngân hàng trung ương ở châu Âu - đó chính là Paul Warburg, và nhờ sự hiểu biết đó mà Paul Warburg đã trở thành người chủ trì và đưa ra ý tưởng xuyên suốt các buổi thảo luận. Thậm chí, chỉ cần xem qua một số tài liệu về sự hình thành của Cục Dự trữ Liên bang cũng đủ để nhận thấy rằng ông ta quả thực là bộ óc thông thái của tổ chức lũng đoạn này. Galbraith nói: “Xét một cách công bằng thì Warburg phải được xem là cha đẻ của hệ thống này.”[17] Giáo sư Edwin Seligman tại trường Đại học Columbia, thành viên của gia tộc ngân hàng quốc tế J. & W. Seligman đồng thời là Trưởng khoa Kinh tế thuộc Đại học Columbia viết rằng: “Căn cứ vào những tính năng cơ bản thì Đạo luật Dự trữ Liên bang chính là tác phẩm của ngài Warburg chứ không phải của bất kỳ ai khác trên đất nước này.”[18] NHÂN VẬT DADDY WARBUCKS THỰC SỰ Paul Moritz Warburg là thành viên quan trọng của tập đoàn ngân hàng đầu tư M.M. Warburg & Company tại Hamburg, Đức và Ams-téc-đam, Hà Lan. Paul tới Mỹ chỉ chín năm trước khi tham dự cuộc họp trên Đảo Jekyll. Tuy nhiên, ngay sau khi đặt chân tới đây, với nguồn tài chính chủ yếu do nhóm Rothschild cung cấp, Paul và em trai mình - Felix - đã có đủ khả năng mua cổ phần của ngân hàng đầu tư New York Kuhn, Loeb & Company trong khi vẫn là cổ đông cấp cao của Warburg ở Hamburg.[19] Chỉ trong vòng hai mươi năm, Paul đã trở thành một trong những người giàu có nhất nước Mỹ với sự chi phối không thể chối cãi bao trùm toàn bộ hệ thống đường sắt của đất nước này. Tại thời điểm đó trong lịch sử, thật khó đánh giá đúng được tầm quan trọng của người đàn ông này. Song một số khả năng cho thấy nhân vật huyền thoại Daddy Warbucks trong loạt truyện tranh hài hước Little Orphan Annie có thể được dựng nên từ bản tính hào hiệp của Paul Warburg cũng như khả năng kỳ diệu của ông trong việc hoàn thành tốt mọi chuyện nhờ vào quyền lực mà sự giàu có vô hạn của mình mang lại. Max Warburg - người anh thứ ba của ông - là cố vấn tài chính của Kaiser kiêm giám đốc ngân hàng Reichsbank tại Đức. Hiển nhiên, đây cũng là ngân hàng trung ương và là một trong những mô hình được sử dụng trong quá trình thiết lập Cục Dự trữ Liên bang. Đột nhiên, vài năm sau, Reichsbank tạo ra tình trạng siêu lạm phát quy mô lớn ở Đức khiến cho tầng lớp trung lưu và toàn bộ nền kinh tế nước này bị xóa sổ hoàn toàn. Trên đất Mỹ, Paul Warburg sớm được biết đến như một người ủng hộ đầy thuyết phục về một ngân hàng trung ương ở Phố Wall. Ba năm trước khi diễn ra cuộc họp trên đảo Jekyll, ông ta đã xuất bản một số cuốn sách mỏng về chủ đề này. Một trong những cuốn sách đó có tựa đề là Defects and Needs of Our Banking System (Tạm dịch: Khuyết điểm và nhu cầu của hệ thống ngân hàng chúng ta) và một cuốn khác là A Plan for A Modified Central Bank (Tạm dịch: Kế hoạch về một ngân hàng trung ương sửa đổi). Những cuốn sách này đã thu hút được sự chú ý rộng khắp trong cả giới học giả lẫn tài chính và tạo ra xu hướng trí thức trong tất cả các cuộc thảo luận sau này về vấn đề pháp chế hoạt động ngân hàng. Và chính trong những buổi luận bàn này, Warburg đã phàn nàn rằng hệ thống tiền tệ của Mỹ đã bị tê liệt bởi sự phụ thuộc vào vàng và trái phiếu chính phủ, những thứ có nguồn cung hạn chế. Vì thế, ông ta biện luận rằng, những gì mà nước Mỹ cần chính là một nguồn cung ứng tiền mềm dẻo, thứ có thể được tăng hay giảm để phù hợp với những nhu cầu thay đổi về thương mại. Ông ta tuyên bố rằng, giải pháp đưa ra là hãy làm theo tấm gương của Đức, nơi các ngân hàng có thể tạo ra tiền chỉ nhờ vào “thương phiếu”, cụm từ mà theo cách gọi của các doanh nghiệp là chứng chỉ nợ (Investor Owned Utility - IOU). Warburg luôn nỗ lực không ngừng, ông ta là một phát ngôn viên được đề cao trước rất nhiều cử tọa có thế lực và thường xuyên viết bài đăng báo về chủ đề này. Chẳng hạn như vào tháng Ba năm đó, tờ New York Times đã cho đăng cả một loạt bài viết gồm mười một phần của Warburg giải thích và trình bày chi tiết về cái mà ông ta gọi là Ngân hàng Dự trữ của nước Mỹ.[20] ĐÂY LÀ THÔNG ĐIỆP RÕ RÀNG ĐỐI VỚI NHỮNG AI HIỂU ĐƯỢC VẤN ĐỀ Hầu hết các bài viết và thuyết trình của Warburg về chủ đề này là lời ba hoa phét lác đối với dân chúng. Để che lấp đi thực tế rằng ngân hàng trung ương đơn thuần là một liên minh cần được hợp thức hóa, những người đề xuất ra mô hình đó đã tung hỏa mù với những thuật ngữ chuyên môn luôn tập trung vào cách thức mà nó có thể mang lại lợi ích về thương mại, lợi ích cho dân chúng và quốc gia; cách hạ thấp các mức lãi suất, cung cấp tài chính cho các dự án công nghiệp thiết yếu và ngăn chặn các cuộc khủng hoảng kinh tế. Không hề có một chút nghi ngờ dù là nhỏ nhất rằng, ẩn bên dưới nó là một kế hoạch hoàn hảo được dự tính hết sức chi tiết nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân bằng tiền của dân chúng. Tuy nhiên, đây chính là thực tế lạnh lùng và đám chủ ngân hàng có nhận thức hơn đều hiểu rõ điều đó. Trong một bài phát biểu trước Hiệp hội các ngân hàng Mỹ vào năm tiếp theo, chính Aldrich đã thể hiện điều đó với bất kỳ ai thực sự lắng nghe ý nghĩa trong từng lời nói của ông. Ông ta phát biểu: “Tổ chức được đề xuất ở đây không phải là một ngân hàng mà là một liên hiệp gồm tất cả các ngân hàng khắp cả nước nhằm phục vụ cho các mục đích rõ ràng.”[21] Chính xác là vậy. Một liên hiệp các ngân hàng. Hai năm sau, trong một bài phát biểu cũng trước Hiệp hội các ngân hàng Mỹ, A. Barton Hepburn của Chase National Bank thậm chí còn trình bày thẳng thắn hơn. Ông ta nói: “Phương sách này thừa nhận và chấp thuận các nguyên tắc về một ngân hàng trung ương. Quả thực, nếu hoạt động đúng như mong đợi của các cơ quan bảo trợ luật pháp thì tổ chức này sẽ khiến cho tất cả các ngân hàng được kết hợp chặt chẽ lại với nhau cùng trở thành những người sở hữu quyền lực thống trị trung ương.”[22] Và đây chính là một định nghĩa hoàn hảo về một liên minh kinh tế mà ta có thể tìm thấy. Năm 1914, một năm sau khi Đạo luật Dự trữ Liên bang được thông qua, thượng nghị sĩ Aldrich có thể đã trở nên thiếu thận trọng hơn trong những lời bình luận của mình. Trong một bài báo được đăng vào tháng Bảy năm đó của một tờ tạp chí có tên The Independent, ông ta đã khoe khoang rằng: “Trước khi Đạo luật này được thông qua, các nhà tài phiệt ngân hàng ở New York chỉ có thể chi phối các nguồn dự trữ của New York. Nhưng giờ đây, chúng tôi có đủ khả năng để thống lĩnh các nguồn dự trữ ngân hàng của cả đất nước này.” CHUYỆN HOANG ĐƯỜNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN NHƯ LỊCH SỬ Một phiên bản lịch sử được chấp nhận đó là Hệ thống Dự trữ Liên bang được tạo ra nhằm ổn định nền kinh tế của chúng ta. Một trong những cuốn giáo trình phổ biến nhất về chủ đề này viết rằng: “Xuất phát từ cuộc khủng hoảng năm 1907 như hồi chuông cảnh báo về dịch bệnh vỡ nợ ngân hàng lan tràn, đất nước này hoàn toàn bị nhấn chìm trong tình trạng hỗn loạn của hoạt động ngân hàng tư nhân bất ổn.”[23] Thế nhưng, ngay cả một sinh viên ngây thơ nhất cũng thấy được sự mâu thuẫn rõ ràng giữa quan điểm tràn đầy “tình thương yêu” này với hành động thực tế của Cục Dự trữ Liên Bang. Ngay từ đầu, Cục Dự trữ Liên bang đã phải chịu trách nhiệm về những vụ sụp đổ tài chính năm 1921 và 1929; Cuộc đại suy thoái năm 1929 và 1939; tình trạng suy thoái kinh tế trong các năm 1953, 1957, 1969, 1975 và 1981; “Ngày Thứ Hai đen tối” của thị trường chứng khoán năm 1987 và nạn lạm phát tới mức 1.000% từng phá hủy 90% sức mua của đồng đô-la.[24] Chúng ta hãy cùng đi sâu hơn vào vấn đề cuối cùng này. Năm 1990, người tiêu dùng cần phải đạt mức thu nhập 10.000 đô-la/năm chỉ để mua được món đồ trị giá 1.000 đô-la vào năm 1914.[25] Sự mất giá không thể tin nổi này được chuyển một cách lặng lẽ sang cho chính phủ liên bang dưới hình thức hệ thống thuế ngầm, và Cục Dự trữ Liên bang chính là cơ chế thực hiện điều đó. Mọi hành động đều có hậu quả của nó. Và hậu quả về sự sung công tài sản theo cơ chế Dự trữ Liên bang hiện đang đổ lên đầu chúng ta. Trong mười năm trở lại đây, nợ doanh nghiệp đang gia tăng nhanh chóng; nợ cá nhân lớn hơn bao giờ hết; tỷ lệ phá sản của cá nhân lẫn doanh nghiệp đều ở mức cao chưa từng có; số lượng ngân hàng và tổ chức tiết kiệm, cho vay bị vỡ nợ lớn hơn trước rất nhiều; lãi suất đối với các khoản nợ quốc gia chiếm tới một nửa số tiền nộp thuế của chúng ta; ngành công nghiệp nặng hầu như bị thay thế bởi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài; chúng ta đang phải đối mặt với một sự thâm hụt mậu dịch quốc tế lần đầu tiên trong lịch sử của mình; 75% khu buôn bán kinh doanh ở Los Angeles và các khu trung tâm khác giờ đây đều thuộc quyền sở hữu của người nước ngoài và hơn nửa đất nước đang trong tình trạng suy thoái kinh tế. LÝ DO ĐẦU TIÊN ĐỂ BÃI BỎ HỆ THỐNG NÀY Đó chính là bảng thành tích tám mươi năm sau khi Cục Dự trữ Liên bang được thiết lập nhằm ổn định nền kinh tế của chúng ta! Có thể không có sự biện hộ rằng Cục Dự trữ Liên bang đã thất bại trong chính những mục tiêu do mình đề ra. Hơn nữa, sau chừng đó thời gian, với những thay đổi liên tục về nhân sự, thời gian hoạt động dưới trướng của cả hai đảng phái chính trị, vô số thử nghiệm về triết lý tiền tệ, trên dưới một trăm lần chỉnh sửa bản hiến chương đồng thời phát triển vô vàn kỹ thuật và công thức mới, Cục Dự trữ Liên bang vẫn có thừa cơ hội để sửa chữa những thiếu sót thủ tục đơn thuần. Bởi thế mà không hề vô lý khi kết luận rằng, Cục Dự trữ Liên bang đã thất bại không phải bởi nó cần một loạt nguyên tắc mới hoặc các nhà định hướng thông minh hơn mà bởi nó không có khả năng đạt được những mục tiêu do chính mình đề ra. Nếu một tổ chức có tên tuổi không thể đạt được những mục tiêu do chính mình đề ra thì chẳng có lý do gì để duy trì nó trừ phi khả năng của tổ chức đó thực sự có thể được thay đổi theo cách nào đó. Điều này dẫn đến câu hỏi: vì sao Cục Dự trữ Liên bang lại không thể đạt được những mục tiêu do chính mình đề ra? Câu trả lời hết sức phũ phàng là: những mục tiêu đó chưa bao giờ là thực cả. Bởi khi hiểu rõ được bối cảnh hình thành Cục Dự trữ Liên bang, suy ngẫm về danh tính của những con người đã vận hành nó và nghiên cứu kỹ hiệu quả hoạt động thực tế của nó trong những năm qua, ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng Cục Dự trữ Liên bang đơn thuần là một liên minh ngân hàng được ngụy trang dưới vỏ bọc chính phủ. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, mong muốn của những người vận hành nó là nhằm duy trì tình trạng đủ việc làm, năng suất sản xuất cao, lạm phát thấp và nói chung là một nền kinh tế vững mạnh. Họ chẳng hề quan tâm đến việc làm thịt “con gà đẻ trứng vàng”. Nhưng khi có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của người dân với nhu cầu cá nhân của liên minh này - sự mâu thuẫn luôn phát sinh hàng ngày - thì quyền lợi của người dân sẽ phải chịu hy sinh bởi đó mới đúng là bản chất của loài thú săn mồi. Vì vậy, thật ngớ ngẩn khi trông chờ một liên minh kinh tế hành động theo bất kỳ cách nào khác. Tuy nhiên, các nhà xuất bản và tổ chức chính phủ đều không cổ vũ cho quan điểm này, vì thế, sứ mệnh hiển nhiên của Cục Dự trữ Liên bang là phải thuyết phục người dân Mỹ rằng, về bản chất, Cục Dự trữ Liên bang không có vấn đề gì mà đơn thuần chỉ là do sự quản lý vụng về. Ví dụ vào năm 1987, Simon & Schuster đã cho xuất bản cuốn Secrets of The Temple (Tạm dịch: Bí mật của thánh đường) của William Greider, nguyên Trợ lý Tổng biên tập tờ The Washington Post. Cuốn sách chủ yếu chỉ trích Cục Dự trữ Liên bang vì những thất bại của nó, nhưng theo Greider thì những thất bại đó không phải là kết quả của bất kỳ sai sót nào trong Hệ thống này mà đơn thuần là kết quả của những yếu tố kinh tế “quá phức tạp” tới mức những nhân vật hảo tâm từng phải vật lộn để tạo ra tác phẩm Cục Dự trữ Liên bang kia cũng không đủ khả năng hiểu hết được. Dẫu thế, cũng xin đừng lo lắng vì họ vẫn đang dựa vào đó để làm việc! Đây vẫn là kiểu chỉ trích chung chung thường thấy trong xu thế truyền thông đại chúng hiện nay của chúng ta. Tuy nhiên, chính bản nghiên cứu riêng của Greider lại đưa ra một lời giải thích hoàn toàn khác. Trong phần nói về nguồn gốc của Cục Dự trữ Liên bang, ông viết: Khi các công ty mới thành lập ăn nên làm ra mà không cần đến Phố Wall thì những ngân hàng khu vực non trẻ quản lý nguồn vốn của những công ty này cũng trở nên phát đạt. Dù thị phần tiền gửi ngân hàng tập trung ở New York vẫn còn rất lớn, chiếm tới một nửa tổng lượng tiền gửi của cả nước, nhưng con số này đang suy giảm đều đều. Mặc dù vẫn là “đứa trẻ to xác nhất đám” nhưng Phố Wall ngày càng không thể bắt nạt được người khác. Xu hướng này là một thực tế quan trọng của lịch sử, một sự thật bị hiểu sai đã làm thay đổi hoàn toàn ý nghĩa chính trị của hệ thống cải cách pháp chế - thứ tạo ra Cục Dự trữ Liên bang, và lúc này, theo lý lẽ thông thường của Quốc hội, thứ được chia sẻ rộng khắp và nhiệt liệt tán thành bởi các nhà cải cách cấp tiến, một tổ chức chính phủ cuối cùng sẽ luôn gắn liền với “tổ hợp độc quyền tiền tệ”, giảm bớt quyền hạn của nó đồng thời thiết lập quyền kiểm soát dân chủ mở rộng toàn diện về tiền và tín dụng… Thế nhưng, kết quả lại gần như hoàn toàn ngược lại. Trên thực tế, những cải cách tiền tệ được ban hành năm 1913 đã giúp duy trì hiện trạng và bình ổn trật tự cũ. Các ông chủ ngân hàng không chỉ thống lĩnh toàn bộ ngân hàng trung ương mới mà còn được hưởng chế độ độc quyền mới chống lại sự bất ổn và sự sụt giảm tiền tệ của riêng mình. Và một khi Cục Dự trữ Liên bang đi vào hoạt động, sự bành trướng vững chắc của thế lực tài chính sẽ bị chặn lại. Lúc đó, Phố Wall vẫn giữ được vị trí thống soái của mình - và thậm chí còn củng cố vững chắc hơn nữa.[26] Antony Sutton, cựu thành viên nghiên cứu cấp cao tại Học viện Hoover về chiến tranh, Cách mạng và Hòa bình, đồng thời là cựu Giáo sư giảng dạy môn Kinh tế học tại trường Đại học Quốc gia California, Los Angeles, lại cung cấp một bản phân tích có phần sâu sắc hơn. Ông viết: Kế hoạch mang tính cách mạng của Warburg để biến cả Xã hội Mỹ phải làm việc cho Phố Wall thực sự đơn giản đến mức kinh ngạc. Thậm chí ngày nay, … các học giả vẫn cứ phủ lên tấm bảng đen của họ những phương trình vô nghĩa, còn đại đa số dân chúng lại phải hoang mang vật lộn trong mớ hỗn loạn với nạn lạm phát và sự sụp đổ tín dụng đang cận kề, trong khi lời giải thích thật rõ ràng về vấn đề này lại không được bàn tới và hầu như chẳng ai có thể hiểu được một cách trọn vẹn. Thực tế, Cục Dự trữ Liên bang là một tổ chức độc quyền về nguồn cung ứng tiền tệ và hoạt động vì lợi ích của một số ít người dưới chiêu bài bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của dân chúng.[27] Như vậy, tầm quan trọng thực sự của cuộc hành trình tới đảo Jekyll và âm mưu được vạch ra đã được chính Harold Kellock, nhà viết tiểu sử đáng ngưỡng mộ của Paul Warburg, tóm gọn một cách tình cờ như sau: Paul M. Warburg có lẽ là người đàn ông ôn hòa nhất từng tự mình tạo ra cả một cuộc cách mạng - cuộc cách mạng không hề đổ máu bởi ông ta không cố gắng khuấy động quần chúng trang bị vũ khí. Ông ta chỉ đơn giản xúc tiến một ý tưởng và đã giành chiến thắng. Điều đó thật tuyệt vời. Một người đàn ông rụt rè, nhạy cảm nhưng đã áp đặt được ý tưởng của mình lên một quốc gia với một trăm triệu dân.[28] TỔNG KẾT Kế hoạch cơ bản cho Cục Dự trữ Liên bang đã được phác thảo tại một cuộc họp bí mật diễn ra vào tháng Mười Một năm 1910, tại một khu nghỉ dưỡng tư nhân của J.P. Morgan trên đảo Jekyll ngoài khơi vùng Georgia. Những người tham dự cuộc họp đó đều đại diện cho những tổ chức tài chính sừng sỏ của Phố Wall cũng như gián tiếp đại diện cho châu Âu. Nguyên nhân để giữ bí mật hết sức đơn giản. Nếu biết rằng các bè phái cạnh tranh trong cộng đồng ngân hàng cấu kết với nhau, dân chúng hẳn đã được báo động về khả năng rằng các chủ ngân hàng đang bày ra một thỏa thuận về kiềm chế thương mại - mà dĩ nhiên, đây chính là những gì họ đang làm. Những gì nổi lên chính là một thỏa thuận liên kết với năm mục tiêu: ngăn chặn sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các ngân hàng quốc gia non trẻ; nắm giữ nhượng quyền kinh doanh để tạo ra tiền từ không khí vì mục đích cho vay lãi; giành quyền kiểm soát nguồn dự trữ của tất cả các ngân hàng để những ngân hàng liều lĩnh hơn sẽ không bị đẩy vào tình trạng thất thoát tiền tệ hoặc rút tiền ào ạt; bắt những người nộp thuế phải gánh chịu các khoản lỗ không thể tránh khỏi của tổ chức lũng đoạn này; và thuyết phục Quốc hội rằng mục đích đó là để bảo vệ dân chúng. Điều này cho thấy rằng các chủ ngân hàng phải trở thành đối tác của các chính trị gia và liên minh này phải được cơ cấu thành một ngân hàng trung ương. Các báo cáo tài chính cho thấy rằng Cục Dự trữ Liên bang đã không đạt được các mục tiêu do chính mình đề ra. Sở dĩ như vậy là vì những mục tiêu này chưa bao giờ có thật. Với tư cách là một liên minh ngân hàng và xét trong phạm vi năm mục tiêu đã được nêu trên, đây được xem là một sự thành công không đạt chuẩn.