Những Âm Mưu Từ Đảo Jekyll - Chương 06

Chương 6 XÂY DỰNG TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI Trò chơi có tên gọi Sự cứu trợ kinh tế đã được kiểm tra và chứng minh là vượt ra khỏi giới hạn của phương tiện được dùng vào việc lấy tiền từ những người nộp thuế để bù vào chi phí của những khoản vay xấu; lối chơi cuối cùng được bộc lộ như một hành động sáp nhập tất cả các quốc gia thành chính phủ thế giới; chiến lược được triển khai theo cách như đã được áp dụng đối với Pa-na-ma, Mê-hi-cô, Bra-xin, Ác-hen-ti-na, Trung Quốc, Đông Âu và Nga. Bây giờ, chúng ta hãy trở lại với trò chơi có tên gọi sự cứu trợ kinh tế. Mọi thứ ở chương trước chỉ là thông tin cơ bản để hiểu được trò chơi khi nó diễn ra trên đấu trường quốc tế. Cuối cùng, đây là luật chơi: 1. Được đảm bảo bởi các ngân hàng trung ương tương ứng của mình, các ngân hàng thương mại tại những quốc gia công nghiệp hóa đã tạo ra tiền từ không khí và cho chính phủ các nước kém phát triển vay. Các ngân hàng này đều biết rằng đó là những khoản vay rủi ro vì vậy đã đưa ra mức lãi suất đủ cao để bù lại, thậm chí còn nhiều hơn cả những gì họ mong đợi nhận được về lâu dài. 2. Khi các quốc gia kém phát triển không thể trả được lãi suất cho các khoản vay của mình, IMF và Ngân hàng Thế giới liền tham gia trò chơi như những người chơi và trọng tài. Bằng việc sử dụng khoản tiền bổ sung do các ngân hàng trung ương của những quốc gia thành viên tạo ra từ không khí, hai tổ chức này chuyển những khoản vay “phát triển” đến những quốc gia có đủ tiền để thanh toán lãi cho những khoản vay gốc cũng như đủ để dành cho những mục đích chính trị của chính quốc gia đó. 3. Nước nhận viện trợ nhanh chóng làm cạn kiệt nguồn cung ứng tiền mới và cuộc chơi chuyển sang giai đoạn thứ hai. Tuy nhiên, lần này, các khoản vay mới sẽ được bảo đảm bởi Ngân hàng Thế giới và ngân hàng trung ương của các nước công nghiệp hóa. Giờ đây, rủi ro vỡ nợ đã được loại bỏ, các ngân hàng thương mại đồng ý giảm lãi suất xuống mức đã được dự kiến ban đầu. Chính phủ của những nước mắc nợ lại tiếp tục các khoản thanh toán. 4. Lối chơi cuối cùng là - đúng vậy, trong phiên bản này của trò chơi, dường như không hề có lối chơi cuối cùng bởi kế hoạch đặt ra là phải duy trì trò chơi mãi mãi. Quả thực, để làm được điều đó, mọi thứ nhất định phải diễn ra như là lối chơi cuối cùng, bao gồm việc chuyển IMF thành ngân hàng trung ương thế giới như Keynes từng lên kế hoạch, nơi sau đó sẽ phát hành ra tiền pháp định quốc tế. Một khi “Ngân hàng Phát hành” xuất hiện thì IMF có thể thu được những nguồn tiền bất tận từ các công dân thế giới thông qua loại thuế ngầm gọi là lạm phát. Sau đó, luồng tiền có thể được duy trì vô hạn định - dù có được các quốc gia này phê chuẩn hay không - bởi họ sẽ nhanh chóng không còn nguồn tiền tệ riêng của quốc gia mình. Vì cuộc chơi này gây ra sự chảy máu của cải từ các quốc gia công nghiệp nên nền kinh tế của những quốc gia này ngày càng trở nên sa sút và ảm đạm hơn - một quy trình đã liên tục diễn ra từ sau Hội nghị Bretton Woods. Kết quả là mức sống của người dân bị hạ thấp trầm trọng. Sự thật ẩn sau những khoản vay được gọi là phát triển này là nước Mỹ và các quốc gia công nghiệp hóa khác đang bị quá trình đó làm cho biến chất. Điều này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà chính là bản chất của kế hoạch đó. Một cường quốc chắc chắn không bao giờ muốn nhượng bộ chủ quyền của mình. Người dân Mỹ sẽ chẳng bao giờ đồng ý chuyển giao hệ thống tiền tệ, quân đội, tòa án của mình cho một hội đồng thế giới được tạo nên từ những chính phủ đã tàn bạo với chính người dân nước mình, đặc biệt khi hầu hết những chế độ đó đã bộc lộ thái độ thù địch chống lại nước Mỹ. Nhưng nếu người dân Mỹ bị đẩy tới chỗ buộc phải đối mặt với sự sụp đổ của nền kinh tế cũng như sự thất bại trong trật tự dân chúng, mọi thứ sẽ trở nên khác biệt. Khi đứng xếp hàng chờ mua bánh mì và đối mặt với tình trạng hỗn loạn trên đường phố, họ mới sẵn sàng từ bỏ chủ quyền của mình nhằm đổi lấy “sự hỗ trợ” của Ngân hàng Thế giới và lực lượng “gìn giữ hòa bình” của Liên Hợp quốc. LỐI CHƠI CUỐI CÙNG Mặt khác, những quốc gia chưa phát triển đều không phát triển được. Những gì đang diễn ra với họ là các nhà lãnh đạo chính trị của những quốc gia này đang trở thành con nghiện đối với dòng tiền của IMF và sẽ không thể dứt bỏ được thói quen đó. Những quốc gia này giờ đây đang bị tiền chế ngự thay cho vũ khí. Điều đó khiến họ không còn là các quốc gia độc lập thực sự mà dần trở thành một phần của hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới do Harry Dexter White và John Maynard Keynes vạch ra. Các nhà lãnh đạo của họ đang được định hướng trở thành những ông vua chuyên quyền trong một chế độ phong kiến công nghệ cao, mới mẻ thể hiện lòng tôn kính những Vị chúa tể của mình ở New York. Và họ vô cùng háo hức làm được điều đó để đổi lấy đặc ân và quyền lực trong “Trật tự Thế giới Mới”. Đó chính là lối chơi cuối cùng. Một trong những người Mỹ đầu tiên ủng hộ chủ nghĩa xã hội trên phạm vị toàn cầu - kể cả việc thất thoát của cải từ nước Mỹ “giàu có” - chính là John F. Kennedy. Rõ ràng, ông ta đã biết về khái niệm này trong thời gian học tập tại Trường Kinh tế Pha-Biên Luân đôn từ năm 1935 đến 1936 trước khi thân phụ mình được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Anh.[1] Khi đã trở Tổng thống, John F. Kennedy vẫn tiếp tục thể hiện sự ảnh hưởng sâu sắc của chương trình đào tạo đó đối với quan điểm chính trị của bản thân. Tháng chín năm 1963, ông đã phát biểu trước các bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương đến từ 102 quốc gia tại cuộc họp thường niên của IMF/Ngân hàng Thế giới và giải thích về khái niệm chủ nghĩa xã hội thế giới bằng những từ ngữ hết sức sôi nổi: Hai mươi năm trước, khi các kiến trúc sư của những tổ chức này gặp nhau để thiết kế ra cấu trúc ngân hàng quốc tế, đời sống kinh tế của thế giới đã bị phân cực quá mạnh và thậm chí còn đáng báo động, cụ thể ở Mỹ… Sáu mươi phần trăm nguồn dự trữ vàng của thế giới đều nằm ở Mỹ… cần có sự phân phát lại các nguồn tài chính của thế giới… Có nhu cầu như nhau để tổ chức được dòng vốn cho những quốc gia bần cùng hóa của thế giới. Tất cả điều này giờ đã sẵn sàng. Đó hoàn toàn không phải do cơ hội mà do nhận thức, suy nghĩ thận trọng và trách nhiệm được dự định từ trước mang lại.[2] HỘI ĐỒNG QUAN HỆ QUỐC TẾ (CFR) THIẾT LẬP CHIẾN LƯỢC Bộ tham mưu trong việc triển khai kế hoạch Pha-Biên ở Mỹ được gọi là Hội đồng Quan hệ Quốc tế (Council on Foreign Relations - CFR). Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn trong các chương sau, nhưng điều quan trọng lúc này là cần phải biết rằng hầu như tất cả các thành viên của ban lãnh đạo nước Mỹ đều xuất thân từ nhóm nhỏ này. Nó chính là nơi hội tụ của các vị tổng thống và các cố vấn của họ, thành viên nội các, các vị đại sứ, thành viên hội đồng của Cục Dự trữ Liên bang, giám đốc các ngân hàng và tổ chức đầu tư địa ốc lớn nhất, hiệu trưởng các trường đại học cùng các ông chủ của những tờ báo, dịch vụ truyền thông và mạng lưới truyền hình quốc gia.[3] Quả thật, chẳng ngoa chút nào khi mô tả nhóm nhỏ này như một chính phủ ngầm của nước Mỹ. Các thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế này chẳng bao giờ thấy hổ thẹn khi nói tới việc làm suy yếu nước Mỹ như một bước đi cần thiết để đạt được lợi ích lớn hơn trong việc xây dựng chính phủ thế giới. Một trong những nhà sáng lập Hội đồng này là John Foster Dulles, người về sau được Dwight Eisenhower, thành viên của Hội đồng, bổ nhiệm làm Ngoại trưởng. Năm 1939, chính Dulles đã nói rằng: Như thường xảy ra trong thế giới ngày nay, hệ thống chủ quyền cần phải được điều chỉnh giảm hoặc cân bằng… nhằm gây bất lợi tức thì cho những nước đang nắm giữa quyền lực vượt trội. Sự thiết lập đồng tiền chung… sẽ tước đi quyền kiểm soát tuyệt đối của chính phủ chúng ta đối với đồng tiền của quốc gia… Nước Mỹ phải sẵn sàng chấp nhận hy sinh sau này để thiết lập một trật tự kinh tế - chính trị thế giới nhằm cân bằng những bất bình đẳng về cơ hội kinh tế đối với các quốc gia.[4] Zbigniew Brzezinski - một thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế - lúc này là cố vấn an ninh quốc gia cho Jimmy Carter - cũng là thành viên của tổ chức này. Năm 1973, Brzezinski viết: Sự hợp tác quốc tế nhất định đã đạt được, song sự phát triển sau này của tiến trình sẽ đòi hỏi nước Mỹ phải hy sinh nhiều hơn nữa, nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc định hình một cơ cấu tiền tệ thế giới mới, với hậu quả là vị trí tương đối thuận lợi hiện nay của nước Mỹ sẽ phải đối mặt với những rủi ro nhất định.[5] Mùa xuân năm 1983, tại Hội nghị thượng đỉnh về kinh tế ở Williamsburg, Virginia, Tổng thống Ronald Reagan đã tuyên bố: Các nền kinh tế quốc gia cần có những cơ chế bố trí tiền tệ và đó là lý do vì sao nền kinh tế thế giới hợp nhất cần có một hệ thống tiền tệ chung… Song, không một hệ thống tiền tệ quốc gia nào có thể thực hiện được điều đó, ngoại trừ một hệ thống duy nhất là hệ thống tiền tệ thế giới. Chiến lược của Hội đồng Quan hệ Quốc tế (CFR) về sự hội tụ của các hệ thống tiền tệ trên thế giới đã được Richard N. Cooper - Giáo sư trường Havard, một thành viên CFR, người đã từng là Thứ trưởng Ngoại giao về Vụ Kinh tế dưới thời Carter - trình bày như sau: Tôi đề xuất một kế hoạch thay đổi triệt để cho thế kỷ tới: tạo ra một đơn vị tiền tệ chung cho tất cả các nền dân chủ công nghiệp với một chính sách tiền tệ chung và một Ngân hàng phát hành chung để quyết định chính sách đó… Làm cách nào các quốc gia độc lập có thể thực hiện được điều này? Họ cần phải trao quyết định về chính sách tiền tệ cho một tổ chức siêu quốc gia. Vẫn còn rất nhiều nghi ngờ về việc liệu dân chúng Mỹ có thể chấp nhận rằng những quốc gia có chế độ chuyên quyền đàn áp nên bầu chọn cho chính sách tiền tệ nào ảnh hưởng đến các điều kiện tiền tệ của nước Mỹ… Để bước đi táo bạo đó phát huy tác dụng, cần phải giả định về một sự hội tụ nhất định của các giá trị chính trị…[6] Những cụm từ như: các cơ chế bố trí tiền tệ, trật tự kinh tế thế giới hiện đại, sự hội tụ của các giá trị chính trị hoặc trật tự thế giới mới hoàn toàn không mang tính cụ thể. Đối với một người bình thường, những cụm từ này nghe vui tai và vô hại. Tuy nhiên, đối với những người trong cuộc, chúng là những từ ngữ được mã hóa với ý nghĩa rõ ràng: sự kết thúc chủ quyền quốc gia và sự hình thành chính phủ thế giới. Richard Gardner, thành viên Hội đồng Quan hệ Quốc tế - một cố vấn khác của Tổng thống Carter - đã giải thích ý nghĩa của những cụm từ này và đồng thời kêu gọi cho chiến lược về gian lận và cải cách từ từ theo học thuyết Pha-Biên: Nói tóm lại, “ngôi nhà của trật tự thế giới” sẽ phải được xây dựng từ dưới lên… Một kiểu lừa bịp quanh vấn đề chủ quyền quốc gia, tức là bằng cách ăn mòn nó từng chút một, sẽ hiệu quả nhiều hơn so với kiểu tấn công trực diện theo mô hình cũ.[7] Đối với sự suy yếu được lập trình sẵn của nền kinh tế Mỹ, Samuel Huntington, thành viên Hội đồng Quan hệ Quốc tế biện luận rằng, nếu giáo dục đại học được xem là điều đáng mơ ước đối với đa số dân chúng thì “cần có một chương trình để hạ thấp mức kỳ vọng về việc làm đối với những người được đào tạo ở bậc cao đẳng”.[8] Paul Volcker, thành viên Hội đồng Quan hệ Quốc tế và là cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, đã nói: “Mức sống trung bình của người Mỹ cần phải giảm xuống… Tôi không nghĩ các bạn có thể trốn tránh được điều đó.”[9] Năm 1993, Volcker đã trở thành chủ tịch của ủy ban Ba bên (Trilateral Commission - TLC), một ủy ban do David Rockefeller tạo ra để hỗ trợ việc xây dựng Trật tự Thế giới Mới phù hợp với chiến lược của Gardner: “Một kiểu lừa bịp quanh vấn đề chủ quyền quốc gia bằng cách ăn mòn nó từng chút một.” Mục đích là để lôi kéo Mỹ, Mê-hi-cô, Ca-na-đa, Nhật Bản và Tây Âu thành một liên minh kinh tế - chính trị. Dưới những khẩu hiệu như tự do thương mại và bảo vệ môi trường, từng quốc gia sẽ phải chấp nhận từ bỏ chủ quyền của mình “từng chút một” cho đến khi xuất hiện một chính phủ theo khu vực mạnh mẽ được hình thành từ quá trình này. Chính phủ mới sẽ kiểm soát các điều kiện làm việc, mức lương và thuế của từng quốc gia. Một khi điều đó xảy ra, bước đơn giản, tiếp theo là sáp nhập các chính phủ khu vực thành chính phủ toàn cầu. Đó chính là sự thật đằng sau những cái gọi là hiệp ước thương mại trong Khối Liên minh châu Âu (European Union - EU), Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (North American Free Trade Agreement - NAFTA), Hiệp định Hợp tác Kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Asia-Pacific Economic Cooperation - APEC) và Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (Genaral Agreement on Tariffs and Trade - GATT), những tổ chức chẳng mấy liên quan đến thương mại. Trong báo cáo thường niên năm 1993 của ủy ban Ba bên, Volcker đã giải thích: Sự tương thuộc đang thúc đẩy các quốc gia của chúng ta hướng đến quá trình hội tụ tại những khu vực đã từng được xem là hoàn toàn trong tầm quan sát nội địa. Một số khu vực này có liên quan đến chính sách điều chỉnh của chính phủ, chẳng hạn như các tiêu chuẩn về môi trường, đối xử công bằng với người lao động và hệ thống thuế.[10] Năm 1992, ủy ban Ba bên đã công bố một báo cáo được thực hiện cùng với Toyoo Gyohten - chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Tokyo và là cựu Bộ trưởng Tài chính về Các vấn đề Quốc tế của Nhật Bản. Gyohten từng giành được học bổng Fulbright khi còn theo học ở Princeton và đã giảng dạy tại Trường Kinh doanh Harvard. Ông cũng từng phụ trách tổ đặc trách vấn đề Nhật Bản của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Nói tóm lại, ông đại diện cho lợi ích tiền tệ của Nhật Bản trong Trật tự Thế giới mới. Trong bản báo cáo này, Gyohten đã giải thích rằng tầm quan trọng thực sự của các hiệp định thương mại không phải là thương mại mà là xây dựng chính phủ toàn cầu: Các hiệp định thương mại khu vực không nên được nhìn nhận như mục đích mà chỉ là những phần bổ sung vào quá trình tự do hóa toàn cầu… Các hiệp định khu vực đưa ra các mô hình hoặc các miếng ghép để gia tăng hoặc củng cố chủ nghĩa toàn cầu hóa… Tây Âu [các nước thuộc EU] là nơi thể hiện chủ nghĩa khu vực một cách chân thật nhất… Các bước hướng đến việc củng cố [gia tăng số lượng hiệp định] thực sự gây ấn tượng và không thể thay đổi được… Một đơn vị tiền tệ chung… ngân hàng trung ương… tòa án và quốc hội - sẽ có nhiều quyền hạn hơn… Sau hội nghị thượng đỉnh Maastricht [tên một thành phố ở Hà Lan nơi tổ chức sự kiện này], một bài xã luận trên tờ Economist đã nhận định: “Hãy gọi nó bằng bất kỳ tên nào bạn muốn, dù sao thì nó vẫn là chính phủ liên bang.”… Tóm lại, quá trình hợp nhất khu vực ở châu Âu có thể được xem như bài tập thực hành về việc dựng nước.[11] Áp dụng cùng viễn cảnh này đối với hiệp ước NAFTA, Henry Kissinger - nguyên Bộ trưởng Ngoại giao đồng thời là thành viên của CFR - đã nói đó “không phải là hiệp ước thương mại thông thường mà là kiến trúc của một hệ thống quốc tế mới… bước quan trọng đầu tiên cho một kiểu cộng đồng mới của các quốc gia.” Bài báo chứa đựng tuyên bố này được giật tít hết sức chính xác: “Với NAFTA, nước Mỹ cuối cùng cũng đã tạo ra được trật tự Thế Giới Mới”.[12] Bản thân David Rockefeller (thành viên của CFR) thậm chí còn tỏ ra mạnh mẽ hơn. Ông nói rằng đó là “tội ác” nếu không thông qua hiệp định bởi vì: “Sau 500 năm, mọi thứ đều đã sẵn sàng để xây dựng một ‘thế giới mới’ ở Tây Bán cầu.”[13] Đầu năm 1994, sự thay đổi hướng đến Trật tự Thế giới Mới đã trở nên gấp rút. Ngày 15 tháng Tư, chính phủ Morocco đã đăng một trang quảng cáo trên New York Times để kỷ niệm sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organzation - WTO) - tổ chức được thành lập thông qua lễ ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) diễn ra ở thành phố Morocco, Marrakech. Trong khi người Mỹ vẫn được thông báo rằng GATT đơn thuần chỉ là hiệp định “thương mại” thì những người theo chủ nghĩa quốc tế lại đang kỷ niệm một khái niệm lớn hơn nhiều. Chính trang quảng cáo đã thể hiện rõ điều đó bằng những từ ngữ không lẫn vào đâu được: 1944, Bretton Woods: IMF và Ngân hàng Thế giới 1945, San Francisco: Liên Hợp Quốc 1994, Marrakech: Tổ chức Thương mại Thế giới Lịch sử biết được nơi mình đang hướng tới… Tổ chức Thương mại Thế giới, trụ cột thứ ba của Trật tự Thế giới Mới, cùng với Liên Hợp Quốc và Quỹ Tiền tệ Quốc tế.[14] NHÌN LƯỚT QUA HOẠT ĐỘNG BÊN TRONG Như vậy là có quá nhiều thứ dành cho lối chơi cuối cùng. Bây giờ, chúng ta hãy quay trở lại với trò chơi có tên gọi sự cứu trợ kinh tế vì nó thực sự đang diễn ra trên đấu trường quốc tế. Chúng ta hãy cùng bắt đầu bằng cách nhìn lướt qua hoạt động bên trong Nội các phủ Tổng thống. Trong cuốn hồi ký của mình, James Watt - Bộ trưởng Bộ Nội vụ thuộc chính quyền Regan - đã mô tả một tình tiết tại một cuộc họp Nội các diễn ra vào mùa xuân năm 1982. Những mục đầu tiên của chương trình nghị sự là các bản báo cáo của Donald Regan, Bộ trưởng Tài chính và David Stockman, Giám đốc Ngân sách tập trung vào những vấn đề mà các quốc gia kém phát triển đang phải đối mặt với các khoản vay ngân hàng của mình, Watt nói: Bộ trưởng Regan tiếp tục giải thích về sự bất lực của những quốc gia nghèo túng đó trong việc chi trả lãi suất cho các khoản vay từ các ngân hàng riêng lẻ như Bank of America, Chase Manhattan và Citibank. Còn Tổng thống thì được thông báo về những hành động mà nước Mỹ “phải” thực hiện để cứu lấy tình trạng này. Sau những trình bày ngắn gọn của Regan và Stockman, có vài phút thảo luận trước khi tôi đưa ra câu hỏi, “Có ai tin tưởng rằng những nước kém phát triển này sẽ có đủ khả năng hoàn trả lại tiền vốn của những khoản vay đó?” Khi không một ai lên tiếng, tôi lại hỏi tiếp: “Nếu những khoản vay đó không bao giờ được hoàn trả thì tại sao chúng ta lại cứu trợ kinh tế cho những nước này cũng như dàn xếp khoản thanh toán tiền lãi của họ?” Ngay lập tức, có một số vị đưa ra câu trả lời: “Nếu chúng ta không dàn xếp những khoản thanh toán lãi suất của họ thì những khoản vay đó sẽ trở thành nợ phải trả và điều đó có thể khiến các ngân hàng Mỹ bị lâm nguy.” Các khách hàng sẽ bị mất tiền của mình chăng? Câu trả lời là Không, nhưng các cổ đông có thể phải chịu mất những khoản cổ tức. Vô cùng sửng sốt, tôi ngả lưng vào chiếc ghế bành bằng da, rộng rãi của mình, cách chỗ ngồi của Tổng thống Mỹ hai ghế. Tôi nhận ra rằng không có gì trên thế giới này có thể ngăn cản được những quan chức chính phủ cấp cao kia khỏi việc tranh giành để bảo vệ và cứu trợ kinh tế cho một vài ngân hàng lớn đang gặp rắc rối nghiêm trọng của Mỹ.[15] PANAMA Điểm số quan trọng đầu tiên của trò chơi này được tạo ra dưới thời Carter khi Panama chậm thanh toán các khoản vay của mình. Một tổ hợp ngân hàng bao gồm Chase Manhattan, First National ở Chicago và Citibank liền gây sức ép buộc Washington trao trả lại Kênh đào cho chính phủ Panama để nước này có thể sử dụng lợi nhuận từ đó nhằm trả lãi cho các khoản vay của mình. Mặc dù vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía người dân Mỹ nhưng Thượng viện đã nhượng bộ trước sức ép nội bộ và thông qua hiệp ước trao trả. Ngay lập tức, chính phủ Panama được thừa hưởng 120 tỷ đô-la lợi tức hàng năm từ kênh đào này cũng như khôi phục được các khoản thanh toán lãi cho các ngân hàng. Như Nghị sĩ Quốc hội Philip Crane đã quan sát: Tại thời điểm diễn ra cuộc đảo chính của tướng Torrijor nhằm lật đổ chính quyền Arnulfo Arias Madrid, tổng khoản nợ nước ngoài chính thức của Panama vẫn ở mức có thể quản lý được với 167 triệu đô-la theo quy chuẩn thế giới. Dưới thời Torrijos, khoản nợ này tăng vụt lên gần một nghìn phần trăm thành một khoản tiền lớn tới 1,5 tỷ đô-la. Lúc này, tỷ suất dịch vụ-nợ tiêu tốn ước tính 39% tổng ngân sách của Panama… Song thực tế, có vẻ như những gì chúng ta thấy ở đây không chỉ là hỗ trợ cho một tên độc tài nhãi nhép dưới hình thức các khoản viện trợ mới và các khoản lợi tức hàng năm mà các hiệp ước sẽ tạo ra cho chế độ Torrijos, mà còn là sự cứu trợ kinh tế cho một số ngân hàng - những đơn vị đúng ra nên đầu tư vào Panama và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không nên chối bỏ trách nhiệm về việc đã làm như vậy.[16] Cuộc cứu trợ kinh tế Panama quả là lối chơi độc đáo. Không một quốc gia nào lại đem cho một tài sản đang tạo ra tạo lợi nhuận, vì thế, từ đó về sau, sự cứu trợ kinh tế sẽ chỉ có liên quan đến tiền. Để chuẩn bị cho đợt cứu trợ này, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Kiểm soát Tiền tệ (Monetary Control Act) năm 1980 nhằm cho phép Dự trữ Liên bang “đúc tiền từ khoản nợ nước ngoài”. Còn nói theo ngôn ngữ của các ông chủ ngân hàng thì lúc này, Cục Dự trữ Liên bang được toàn quyền tạo ra tiền từ không khí để phục vụ cho chính phủ các nước khác. Do đó, Cục Dự trữ Liên bang xem các khoản nợ này như “tài sản” và sau đó dùng chúng như các khoản ký quỹ nhằm tạo ra càng nhiều tiền hơn ở Mỹ. Đó thực sự là một sự mở rộng mang tính cách mạng về quyền lực của Cục Dự trữ Liên bang nhằm tạo ra lạm phát, cho đến thời điểm đó, Cục Dự trữ Liên bang chỉ được phép tạo ra tiền cho chính phủ Mỹ. Giờ đây, nó có đủ khả năng thực hiện điều đó cho bất kỳ chính phủ nào và kể từ đó đã hoạt động như ngân hàng trung ương cho cả thế giới. MÊ-HI-CÔ Năm 1982, hầu hết mọi chính phủ thuộc Thế giới Thứ ba đều không thể bắt kịp thời hạn của các khoản phải trả, trong đó Mê-hi-cô là nước dẫn đầu khi thông báo rằng trong năm nay, chính phủ nước này không thể trả thêm bất kỳ khoản tiền nào trong tổng số nợ lên đến 85 tỷ đô-la. Ngay lập tức, Henry Wallich - Thống đốc Dự trữ Liên bang - đã bay tới Thụy Sĩ để đàm phán về một khoản vay từ IMF trị giá 4,5 tỷ đô-la thông qua Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank of International Settlements). Các ngân hàng trung ương ở châu Âu và Nhật Bản cung cấp 1,85 tỷ đô-la (khoảng 40%), phần còn lại do Cục Dự trữ Liên bang chu cấp. Các ngân hàng thương mại liền hoãn các khoản thanh toán gốc trong hai năm, nhưng với việc bổ sung các khoản vay mới, quy trình thanh toán lãi đã được phục hồi. Tuy nhiên, điều đó cũng không giải quyết được vấn đề bởi chỉ vài năm sau, Mê-hi-cô lại khất nợ lần nữa và năm 1985, các ngân hàng đồng ý hoãn khoản thanh toán 29 tỷ đô-la và quay vòng một khoản nợ 20 tỷ đô-la khác, điều này có nghĩa rằng họ cung cấp những khoản vay mới để trả cho những khoản vay cũ. Cũng trong năm đó, James Baker, Bộ trưởng Tài chính, đã công bố bản kế hoạch của chính phủ nhằm giải quyết cơn khủng hoảng nợ của thế giới. Nó đã trở thành bản báo cáo chính thức cổ vũ các ngân hàng tiếp tục cho chính phủ các nước thuộc Thế giới Thứ ba vay tiền miễn là những nước này đồng ý ban hành các cải cách kinh tế ủng hộ thị trường tự do. Điều này khiến cho bản kế hoạch còn hơn cả triết lý sống bởi vì không có hy vọng rằng nó sẽ được thực thi bởi bất kỳ chính phủ của những nước xã hội chủ nghĩa nào đang nhận các khoản vay. Thế nên, ẩn sau lời tuyên bố đó chính là hàm ý rằng có thể trông cậy vào sự trợ giúp của chính phủ liên bang thông qua hoạt động của Cục Dự trữ Liên bang trong trường hợp các khoản vay trở nên khó đòi. Baker đã kêu gọi rót thêm 29 tỷ đô-la với thời hạn ba năm chủ yếu vào các nước Mỹ La-tinh, trong đó Mê-hi-cô là quốc gia quan trọng hàng đầu. HOÁN ĐỔI NGOẠI TỆ Không lâu sau khi cho Fidel Castro vay 55 tỷ đô-la, chính phủ Mê-hi-cô đã thông báo với các ngân hàng rằng: “Chúng tôi sẽ chỉ thanh toán theo số tiền mình có mà thôi”. Điều này khiến cho Paul Volcker, giám đốc Cục Dự trữ Liên bang phải vội vã tới gặp Jesus Silva Herzog, Bộ trưởng Tài chính của Mê-hi-cô và đề xuất đặt trách nhiệm lên vai người nộp thuế Mỹ. Ngay lập tức, một khoản vay ngắn hạn 600 triệu đô-la được gia hạn để giúp Mê-hi-cô vượt qua cuộc bầu cử vào ngày 4 tháng 7 của đất nước này. Hành động này được gọi là “hoán đổi ngoại tệ” bởi vì Mê-hi-cô đã chuyển đổi một số lượng đồng pê-sô tương tự như đã hứa nhằm bù lại cho những đồng đô-la Mỹ. Dĩ nhiên, đồng pê-sô hoàn toàn vô giá trị trên thị trường quốc tế và đó là lý do vì sao Mê-hi-cô muốn có những đồng đô-la. Tầm quan trọng của khoản vay này không phải là lượng tiền cho vay hay thậm chí vấn đề hoàn trả mà chính là cách thực hiện khoản vay này. Trước hết, nó được thực hiện trực tiếp bởi hệ thống Dự trữ Liên bang, hành động như một ngân hàng trung ương cho Mê-hi-cô chứ không phải cho Mỹ; và thứ hai, nó được thực hiện gần như bí mật hoàn toàn, chính William Greider đã cung cấp những chi tiết sau: Các trường hợp hoán đổi ngoại tệ có một lợi ích khác là chúng có thể được thực hiện một cách bí mật. Chính Volcker đã thận trọng thông báo cho cả Chính phủ lẫn các vị chủ tịch then chốt trong quốc hội mà không hề gặp phải sự phản đối nào. Tuy nhiên, việc báo cáo công khai về những lần hoán đổi ngoại tệ thường được thực hiện theo quý. Vì thế, khoản vay khẩn cấp từ Cục Dự trữ Liên bang sẽ không được tiết lộ trong vòng từ ba đến bốn tháng… Trong thời gian đó, Volcker hy vọng rằng Mê-hi-cô sẽ dàn xếp được nguồn vốn mới đáng kể hơn từ IMF… Các khoản viện trợ nước ngoài được tiến hành một cách thận trọng để tránh gây ra sự hoảng sợ, đồng thời cũng hạn chế những bất đồng chính trị trong nước… Có vẻ như việc cứu trợ kinh tế cho Mê-hi-cô nghiêm trọng đến mức không thể bàn cãi được.[17] HOÁN ĐỔI NỢ Việc hoán đổi ngoại tệ đã không giải quyết được vấn đề. Vì vậy, tháng Ba năm 1988, người chơi và các trọng tài cùng thống nhất giới thiệu một thủ đoạn mới trong trò chơi: một mánh lới kế toán được gọi là “hoán đổi nợ”. Hoán đổi nợ tương tự như hoán đổi ngoại tệ, tức là Mỹ sẽ lần lượt đổi những thứ có giá trị thực để lấy những thứ vô giá trị, nhưng bằng cách sử dụng trái phiếu chính phủ thay cho tiền. Giao dịch này trở nên phức tạp do giá trị thời gian của những trái phiếu đó. Tiền tệ được đánh giá bởi giá trị tức thời của chúng, tức là những gì chúng sẽ mua trong hiện tại, còn trái phiếu được đánh giá theo giá trị tương lai, tức là những gì chúng sẽ mua được trong tương lai. Ngoài yếu tố khác biệt đó thì quá trình này về cơ bản là giống nhau và đây chính là cách thức hoạt động của nó hệ thống này. Mê-hi-cô dùng đồng đô-la Mỹ để mua Trái phiếu Kho bạc Mỹ trị giá 492 triệu đô-la không lãi suất nhưng sẽ trả lại 3,67 tỷ đô-la khi đến kỳ đáo hạn sau hai mươi năm. (Nói một cách chính xác thì đây là những trái phiếu không trả lãi.) Sau đó, Mê-hi-cô phát hành trái phiếu của riêng mình bằng cách sử dụng chứng khoán Mỹ như một khoản ký quỹ. Điều này có nghĩa là trị giá tương lai của trái phiếu Mê-hi-cô - thứ lúc trước được coi như vô giá trị - lúc này lại được chính phủ Mỹ đảm bảo. Các ngân hàng liền hăm hở chuyển những khoản vay cũ của mình sang trái phiếu Mê-hi-cô với tỷ suất 1,4/1. Nói cách khác, họ chấp nhận đổi 140 triệu đô-la khoản nợ cũ để lấy 100 triệu đô-la bằng trái phiếu. Điều đó khiến cho lợi nhuận từ lãi của họ bị giảm sút nhưng họ lại rất vui vẻ bởi vừa mới hoán đổi được những khoản vay vô giá trị thành những trái phiếu được đảm bảo đầy đủ. Thủ đoạn này được giới báo chí tung hô như phép màu tiền tệ thật sự. Nó đã tiết kiệm cho chính phủ Mê-hi-cô hơn 200 triệu đô-la tiền lãi hàng năm cũng như khôi phục được dòng tiền cho các ngân hàng, và điều kỳ diệu hơn cả là nó không hề tiêu tốn một khoản chi phí nào từ những người nộp thuế Mỹ.[18] Lý do giải thích cho việc này là trái phiếu Kho bạc đã được bán với mức lãi suất thông thường trên thị trường, chính phủ Mê-hi-cô phải thanh toán cho các trái phiếu này nhiều như bất kỳ một chính phủ nào khác. Đây là sự thật, nhưng điều mà các nhà bình luận không nhận thấy chính là nơi mà Mê-hi-cô đã có được những đồng đô-la Mỹ để dùng vào việc mua trái phiếu, chúng đến thông qua IMF dưới hình thức các khoản “dự trữ giao dịch ngoại tệ”. Nói cách khác, chúng chính là những khoản viện trợ từ các quốc gia công nghiệp hóa, chủ yếu từ Mỹ. Vì vậy, Bộ Tài chính Mỹ đã cấp phần lớn tiền để mua lại chính trái phiếu của mình. Nó càng lún sâu vào nợ nần thêm nửa tỷ đô-la và đồng ý trả thêm 3,7 tỷ đô-la cho những khoản thanh toán tương lai để chính phủ Mê-hi-cô có thể tiếp tục trả lãi cho các ngân hàng. Đó được gọi là cứu trợ kinh tế và đã đổ lên đầu những người nộp thuế Mỹ. IMF TRỞ THÀNH NGƯỜI BẢO LÃNH CUỐI CÙNG Một năm sau, James Baker (thành viên CFR) - Bộ trưởng Ngoại giao và Nicholas Brady (thành viên CFR) - Bộ trưởng Tài chính đã bay tới Mê-hi-cô để bàn về một thỏa thuận nợ mới với IMF trong vai trò người bảo lãnh cuối cùng. IMF trao cho Mê-hi-cô một khoản vay mới trị giá 3,5 tỷ đô-la (sau này tăng lên 7,5 tỷ đô-la), Ngân hàng Thế giới cấp một khoản khác trị giá 1,5 tỷ đô-la còn các ngân hàng giảm bớt một phần ba giá trị các khoản vay trước đây của mình. Các ngân hàng tư nhân hoàn toàn sẵn sàng mở rộng các khoản vay mới và giảm bớt các khoản vay cũ. Sao lại không nhỉ? Giờ đây, những khoản thanh toán lãi sẽ được những người nộp thuế ở Mỹ và Nhật Bản đảm bảo. Về lâu dài, điều đó không giải quyết được vấn đề bởi vì nền kinh tế Mê-hi-cô đang phải gánh chịu mức lạm phát quá lớn do các khoản nợ nội bộ cộng thêm khoản vay từ các ngân hàng bên ngoài. Các cụm từ “khoản nợ nội bộ” hay “khoản vay trong nước” chẳng qua là mã hóa của thực tế rằng chính phủ vừa mới tăng thêm nguồn cung tiền của mình bằng việc bán trái phiếu. Khoản tiền lãi mà chính phủ nước này phải trả để lôi kéo mọi người mua trái phiếu có thể gây kinh ngạc và trên thực tế thì tiền lãi cho các khoản vay trong nước của Mê-hi-cô đang tiêu tốn của nền kinh tế đến gấp ba lần khi các khoản vay nước ngoài bị rút hết.[19] Song bất kể thực tế này, John S. Reed, (thành viên Hội đồng Quan hệ Quốc tế), chủ tịch Citicorp - một trong những tổ chức cho vay lớn nhất Mê-hi-cô - phát biểu rằng họ đã sẵn sàng cho vay thậm chí còn nhiều hơn hiện nay. Tại sao vậy? Liệu điều đó có liên quan gì đến thực tế rằng Cục Dự trữ Liên bang và IMF sẽ đảm bảo các khoản thanh toán chăng? Hoàn toàn không phải vậy. Chính ông ta cho biết: “Bởi vì chúng tôi tin tưởng nền kinh tế Mê-hi-cô đang hoạt động rất tốt.”[20] Vào cuối năm 1994, trò chơi vẫn tiếp tục với cùng lối chơi đó. Ngày 21 tháng chạp, chính phủ Mê-hi-cô thông báo rằng nước này không thể thanh toán tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng pê-sô với đồng đô-la được nữa và đồng pê-sô sẽ được thả nổi trên thị trường tự do để tự tìm kiếm giá trị thực của nó. Ngay ngày hôm sau, đồng pê-sô giảm hẳn 39% và thị trường chứng khoán Mê-hi-cô trở nên rối loạn. Một lần nữa, Mê-hi-cô không thể thanh toán lãi cho các khoản nợ của mình. Ngày 11 tháng Giêng, Tổng thống Clinton (thành viên CFR) đã thuyết phục Quốc hội phê duyệt đảm bảo cho các khoản vay mới trị giá 40 tỷ đô-la. Robert Robin (thành viên CFR), Bộ trưởng Tài chính, đã giải thích: “Đó là sự phán đoán của tất cả mọi người, gồm cả Chủ tịch Alan Greenspan (thành viên CFR), rằng khả năng để các khoản nợ được thanh toán [bởi Mê-hi-cô] là vô cùng lớn.” Tuy nhiên, trong khi Quốc hội còn đang cân nhắc về vấn đề này thì đồng hồ cho vay cũng đang điểm từng giờ. Khoản thanh toán 17 tỷ đô-la bằng trái phiếu Mê-hi-cô đến kỳ hạn thanh toán trong vòng 60 ngày và 4 tỷ đô-la trong số đó sẽ phải thanh toán vào đầu tháng Hai! Vậy ai sẽ là người đứng ra thanh toán cho các ngân hàng? Vấn đề này không thể chờ đợi được nữa. Ngày 31 tháng Giêng, không cần tới Quốc hội, Tổng thống Clinton đã thông báo một gói cứu trợ kinh tế hơn 50 tỷ đô-la dưới hình thức bảo lãnh các khoản vay cho Mê-hi-cô, trong đó 20 tỷ đô-la từ Quỹ Ổn định Hối đoái (Exchange Stabilization Fund) của Mỹ, 17,8 tỷ đô-la từ IMF, 10 tỷ đô-la từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế và 3 tỷ đô-la từ các ngân hàng thương mại. BRA-XIN Năm 1982, Bra-xin trở thành người chơi chính khi nước này đưa ra thông báo rằng không đủ khả năng thanh toán các khoản nợ của mình. Đáp lời thông báo này, Bộ Tài chính Mỹ ngay lập tức đưa ra khoản vay trực tiếp trị giá 1,23 tỷ đô-la để các tấm séc đó được chuyển đến các ngân hàng trong khi các cuộc đàm phán vẫn đang được tiến hành để tìm kiếm một giải pháp lâu dài hơn thông qua IMF. Hai mươi ngày sau, IMF đã đưa ra một khoản vay nữa trị giá 1,5 tỷ đô-la và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế cho vay 1,2 tỷ đô-la. Đến tháng sau, IMF lại đưa thêm 5,5 tỷ đô-la nữa và các ngân hàng phương Tây đã bổ sung thêm 10 tỷ đô-la bằng những khoản tín dụng thương mại; các khoản vay cũ được thay đổi lại thời hạn, và tổ chức Ngân hàng Morgan cung cấp các khoản vay mới trị giá 4,4 tỷ đô-la. Những khoản vay “tạm thời” từ Bộ Tài chính Mỹ đã được gia hạn mà không kèm theo ngày hoàn trả. Ron Chernow đã nhận xét: Kế hoạch này đã tạo ra một tiền lệ định mệnh trong việc “khắc phục” cuộc khủng hoảng nợ nần bằng cách khiến cho nợ nần càng thêm chồng chất. Trong trò chơi này, một mặt các chủ ngân hàng sẽ cho Bra-xin vay nhiều hơn nữa, mặt khác sẽ lấy lại những gì họ đã đưa ra. Điều này giúp bảo toàn giá trị sổ sách ảo của các khoản vay trong các bảng cân đối của ngân hàng. Vì vậy, khi tiếp cận sự giải cứu như một tổ chức mới quan trọng, các chủ ngân hàng đã làm tăng thêm các mức lãi suất cao và chi phí của việc thay đổi thời hạn.[21] Đến năm 1983, chính phủ các nước thuộc Thế giới Thứ ba đã nợ các ngân hàng 300 tỷ đô-la và nợ chính phủ các nước công nghiệp hóa 400 tỷ đô-la. Hai mươi lăm quốc gia thực sự không trả được nợ. Lần thứ hai, Bra-xin rơi vào tình trạng vỡ nợ và đã yêu cầu thay đổi lại thời hạn giống như Rumania, Cuba và Zambia. IMF đã nhảy vào và cung cấp thêm hàng tỷ đô-la cho những nước không trả đúng hạn này. Trong khi đó, thông qua Cơ quan Tín dụng Hàng hóa (Commodity Credit Corporation), Bộ Nông nghiệp đã trả cho các ngân hàng Mỹ 431 triệu đô-la nhằm thanh toán cho các khoản vay của Bra-xin, Morocco, Pê-ru và Rumania. Theo buổi ký kết các bản thỏa thuận này, ngày 20 tháng Tư năm 1983, tờ Wall Street Journal đã đăng tải rằng, “vì tất cả các mục đích thực tiễn, cuộc khủng hoảng nợ nần quốc tế đã kết thúc.” Không hẳn thế. Đến năm 1987, một lần nữa, Bra-xin lại đến hạn phải thanh toán khoản nợ khổng lồ 121 tỷ đô-la, thời hạn lần này là một năm rưỡi. Bất chấp dòng tiền đó đã từng vào tay mình song giờ đây, quốc gia này bị “cháy túi” đến mức thậm chí không thể mua nổi nhiên liệu cho xe cảnh sát. Năm 1989, một đợt cứu trợ kinh tế mới lại được tổ chức và đích thân Tổng thông Bush-cha (thành viên Hội đồng Quan hệ Quốc tế) tuyên bố rằng, giải pháp duy nhất dành cho vấn đề nợ của Thế giới Thứ ba chính là bỏ qua khoản nợ đó. Và mười ba năm sau, Tổng thống Bush-con lại tiếp nối truyền thống đó bằng cách kêu gọi một khoản vay khác trị giá 30 tỷ đô-la từ IMF để dành cho Bra-xin và được bảo lãnh bởi người nộp thuế của Mỹ. ÁC-HEN-TI-NA Năm 1982, Ác-hen-ti-na không đủ khả năng thanh toán 2,3 tỷ đô-la đến hạn trong tháng Bảy và tháng Tám. Các ngân hàng đã gia hạn cho những khoản vay này trong khi IMF chuẩn bị bơm một khoản tiền mới trị giá 2,15 tỷ đô-la. Cách này đã giúp khôi phục được những khoản trả lãi và cho phép các chính trị gia Ác-hen-ti-na tiêu xài rủng rỉnh hơn một chút. Bảy tháng sau, Ác-hen-ti-na lại thông báo không thể trả thêm bất cứ khoản tiền nào cho đến tận mùa thu năm sau (1983). Ngay lập tức, các ngân hàng bắt đầu đàm phán về những khoản quay vòng nợ, khoản đảm bảo và khoản vay mới của IMF. Sau đó, Ác-hen-ti-na đã ký một bản thỏa thuận với 350 ngân hàng tín dụng để đủ thanh toán cho gần một phần tư khoản nợ trị giá 13,4 tỷ đô-la của mình, và các ngân hàng đã đồng ý cho vay thêm 4,2 tỷ đô-la để trả những khoản thanh toán lãi cùng với các khoản tiền thưởng chính trị. IMF đã đưa ra 1,7 tỷ đô-la và chính phủ Mỹ đưa ra một khoản bổ sung trực tiếp trị giá 500 triệu đô-la. Sau đó, Ác-hen-ti-na đã thanh toán dược 850 triệu đô-la lãi quá hạn cho các ngân hàng. Năm 1988, một lần nữa, Ác-hen-ti-na lại ngừng thanh toán các khoản vay của mình và rơi vào tuyệt vọng khi các chủ ngân hàng và các chính trị gia cùng nhau hội ý kêu gọi lối chơi cứu trợ kinh tế tiếp theo. Sau khi hội ý, họ đã đưa ra các khoản vay mới, quay vòng các khoản nợ và các khoản đảm bảo. Như Larry A. Sjaastad tại trường đại học Chicago đã tổng kết: Chẳng có ngân hàng Mỹ nào không bán toàn bộ danh mục vốn đầu tư khu vực Mỹ La-tinh của mình để đổi lấy 40 xu trên một đô-la nếu không trông chờ vào khả năng rằng chiến dịch vận động hành lang chính trị đầy tài tình sẽ kiếm được một gã khờ sẵn sàng trả tới 50 hoặc 60 hoặc thậm chí 90 xu cho một đô-la. Và gã khờ đó chính là người đóng thuế của Mỹ.[22] Một lần nữa, IMF đã đưa ra một khoản cứu trợ kinh tế trị giá 40 tỷ đô-la cho Ác-hen-ti-na vào năm 2001 và thêm 8 tỷ đô-la nữa vào năm 2002. Lịch sử này có thể được lặp đi lặp lại một cách đầy tẻ nhạt. Nó sẽ phản tác dụng nếu cứ diễn đi diễn lại cùng một câu chuyện bẩn thỉu như vậy tại mỗi quốc gia. Đủ để nói rằng, trò chơi giống nhau này đã được chơi với nhiều đội khác nhau từ Bô-li-vi-a, Pê-ru, Vê-nê-zuê-la, Costa Rica, Morocco, Phi-líp-pin và Cộng hòa Đô-mi-nic-ca cùng với hầu hết các nước kém phát triển khác trên thế giới. YÊU CẦU VỀ SỰ HỘI TỤ Đây là giai đoạn chuẩn bị để có thể hiểu rõ được giai đoạn tiếp theo của trò chơi - điều đang diễn ra khi tôi viết những dòng chữ này. Đó là đưa Trung Quốc và khối Xô viết cũ vào bản Phác họa Vĩ đại về một chính phủ toàn cầu. Cũng như đối với tất cả quốc gia khác trên thế giới, cơ chế chủ yếu để thực hiện được mục tiêu này - ít nhất trong lĩnh vực kinh tế - vẫn là IMF/Ngân hàng Thế giới.[23] Quy trình là (1) chuyển tiền từ những quốc gia công nghiệp hóa - tức là kéo nền kinh tế của những quốc gia này xuống thành mẫu số chung phù hợp và (2) giành quyền kiểm soát đối với các nhà lãnh đạo chính trị của những nước nhận viện trợ khi họ trở nên phụ thuộc vào dòng tiền đó. Nó cũng tạo ra sự xuất hiện của quá trình “hội tụ” chính trị toàn cầu, một điều kiện mà Richard Cooper - nhà lý luận của CFR - đã nói là cần thiết trước khi người Mỹ chấp nhận để chính phủ các nước khác định đoạt số phận của mình. TRUNG QUỐC Trung Quốc đã gia nhập IMF/Ngân hàng Thế giới từ năm 1980 và ngay lập tức bắt đầu nhận được các khoản vay hàng tỷ đô-la cho dù được biết là đang tập trung một phần lớn của cải vào phát triển quân đội. Đến năm 1987, Trung Quốc đã trở thành con nợ lớn thứ hai của IMF, sau Ấn Độ, và kể từ đây, những đợt chuyển tiền như vậy ngày càng tăng với nhịp độ ổn định. Ngân hàng đã khẳng định rằng các khoản vay sẽ được dùng để khuyến khích cải cách kinh tế với ưu tiên cho lĩnh vực tư nhân. Song, lĩnh vực này không nhận được bất kỳ khoản tiền nào. Năm 1989, sau khi các doanh nghiệp nhỏ và trang trại thuộc lĩnh vực tư nhân bắt đầu phát triển và vượt trội hơn so với các doanh nghiệp nhà nước trong cùng ngành nghề, các nhà lãnh đạo Trung Quốc liền nhanh chóng siết chặt họ bằng các biện pháp kiểm soát gắt gao và các mức thuế cao hơn. Phó Thủ tướng Diệu Nghĩa Lâm đã tuyên bố rằng, có quá nhiều công trình xây dựng vô ích, quá nhiều khoản vay tư nhân và quá nhiều chi tiêu cho “những thứ xa xỉ” chẳng hạn như xe hơi hay các buổi đại tiệc. Theo ông, để chấm dứt tình trạng này, điều cần thiết là phải tăng cường các biện pháp kiểm soát của chính phủ đối với mức lương, giá cả và các hoạt động kinh doanh. Khi đó, câu hỏi đặt ra là tại sao ngay từ đầu Trung Quốc lại cần tiền. Có phải nước này dùng tiền để phát triển các tài nguyên thiên nhiên hoặc công nghiệp của mình? Có phải để chống lại sự nghèo đói và nâng cao mức sống của dân chúng nước mình không? Jame Bovard đã đưa ra câu trả lời: Việc Ngân hàng bảo vệ chính sách Trung Quốc của mình là đặc biệt khó hiểu bởi vì bản thân Trung Quốc đang tham gia vào cuộc chè chén đầu tư nước ngoài. Ngân hàng Thế giới trao cho Trung Quốc những khoản vay không lãi suất, và sau đó, Trung Quốc mua tài sản ở Hồng Kông, Mỹ, Úc và nhiều nơi khác. Một nhà kinh tế học tại Citibank đã ước tính rằng “khoản đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào tài sản, sản xuất và dịch vụ [chỉ riêng ở Hồng Kông] đã đạt đến 6 tỷ đô-la”. Năm 1984, dòng vốn ra của Trung Quốc là 1 tỷ đô-la. Bên cạnh đó, chương trình viện trợ nước ngoài của riêng Trung Quốc đã mang lại cho nước này hơn 6 tỷ đô-la trong những thập kỷ gần đây, chủ yếu dành cho các chính phủ phe cánh tả.[24] ĐÔNG ÂU Khoản viện trợ của Mỹ dành cho chính phủ các nước Đông Âu cũng được biện minh theo đúng học thuyết dành cho Trung Quốc trước đó: nó sẽ cải thiện nền kinh tế, tạo ra cuộc sống tốt hơn. Tuy nhiên, sự thật là số tiền đó không cải thiện được nền kinh tế cũng không mang lại cho người dân cuộc sống tốt đẹp hơn. Trên thực tế, nó hoàn toàn không giúp ích gì cho mọi người, số tiền đó đã đi thẳng vào tay chính phủ các nước và được dùng cho những vấn đề ưu tiên của chính phủ. Nó giúp củng cố quyền lực và cho phép các đảng phái tăng cường sự kiểm soát của mình. Năm 1982, Ba Lan lần đầu tiên mất khả năng thanh toán các khoản vay ngân hàng - những khoản vay được chính phủ Mỹ đảm bảo thông qua Cơ quan Tín dụng Hàng hóa. Theo các điều khoản đảm bảo, người nộp thuế sẽ thanh toán cho bất kỳ khoản vay ngân hàng nào khi người vay mất khả năng chi trả. Đó chính là điều mà các ngân hàng hy vọng khi đưa ra những khoản vay này, nhưng việc xếp chúng vào nhóm “vỡ nợ” đòi hỏi ngân hàng phải xóa bỏ chúng ra khỏi sổ sách kế toán như tài sản. Nhưng đó là điều không thể chấp nhận được bởi nó sẽ khiến các bảng cân đối trở nên tồi tệ đúng như bản chất của chúng. Vì vậy, Bộ Tài chính đã đồng ý kết hợp các luật chơi và tiến hành thanh toán mà không đòi hỏi các khoản vay phải rơi vào tình trạng vỡ nợ. Tuy nhiên, cuối cùng nó đã phải dừng lại do Quốc hội tức giận, cho đến khi chính quyền Reagan trì hoãn đủ lâu để thay mặt Ba Lan thanh toán trực tiếp khoản tiền 400 triệu đô-la cho các ngân hàng. Tháng Mười một năm 1988, Ngân hàng Thế giới đã cung cấp khoản vay đầu tiên trị giá 17,9 triệu đô-la cho Ba Lan. Ba năm sau, như một minh chứng hùng hồn cho điều mà Tổng thống muốn nói khi ủng hộ việc “bỏ qua khoản nợ”, Chính quyền Bush-cha đã hủy toàn bộ 70% trong tổng số 3,8 tỷ đô-la khoản nợ nước Mỹ và hóa đơn thanh toán được dồn lên vai người nộp thuế. Năm 1980, chỉ trước khi Hung-ga-ry được nhận khoản vay của IMF/Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người GNP hàng năm là 4.180 đô-la. Đây quả là vấn đề bởi chính sách của Ngân hàng Thế giới là chỉ cung cấp những khoản vay phát triển cho những nước có thu nhập bình quân đầu người GNP dưới 2.650 đô-la. Nhưng đừng lo lắng. Năm 1981, chính phủ Hung-ga-ry đã chỉnh lại con số thống kê của mình từ 4.180 đô-la xuống còn 2.100 đô-la.[25] Con số sụt giảm đến 50% trong vòng một năm đó chắc chắn là một trong những trường hợp trì trệ kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới. Đây là một sự dối trá nhưng chẳng ai buồn nhướn lông mày bởi đó là phần tất yếu của trò chơi. Đến năm 1989, chính quyền Bush-cha đã trao cho chính phủ Hung-ga-ry địa vị thương mại của “quốc gia được ưu ái nhất” và đã thay mặt nước này thành lập một quỹ phát triển đặc biệt trị giá 25 triệu đô-la. NGA Các ngân hàng Mỹ luôn sẵn sàng tạo ra những khoản vay cho Liên bang Xô Viết, ngoại trừ những giai đoạn ngắn ngủi trước đây về động cơ cá nhân trong suốt thời kỳ xảy ra Khủng hoảng Tên lửa Cuba (Cuban Missile Crisis), và những gián đoạn kinh tế không đáng kể khác. Năm 1985, sau khi công chúng không còn quan tâm đến Áp-ga-nit-stan, các ngân hàng của “thế giới tự do” lại mở cửa với các chính sách cho vay dành cho Xô Viết. Một gói cho vay trị giá 400 triệu đô-la đã được tạo ra bởi một tổ hợp gồm First National ở Chicago, Morgan Guaranty, Bankers Trust và Irving Trust - cùng với một chi nhánh của Royal Bank of Canada ở Luân Đôn - với mức lãi suất thấp một cách khác thường “để mua ngũ cốc của Mỹ và Canada”. Sự phẫn nộ của dân chúng nhanh chóng tiêu tan khi mục đích của khoản vay dành cho chính phủ đó được thông báo là để mua sắm hàng hóa từ chính quốc gia cho vay - đặc biệt nếu hàng hóa đó là ngũ cốc với mục đích dùng để làm bánh mỳ hoặc chăn nuôi gia súc. Ai có thể phản đối việc khiến cho số tiền đó quay trở lại với người nông dân và thương nhân của chúng ta dưới hình thức các khoản lợi nhuận? Và ai có thể chê trách một dự án được thực hiện nhằm mục đích cung cấp lương thực cho người nghèo đói? Mánh khóe lừa bịp này quả là vô cùng hấp dẫn. Đúng là tiền sẽ được sử dụng - ít nhất là một phần - để mua ngũ cốc hoặc hàng hóa được sản xuất trong nước. Nhưng cũng giống như chủ nhà, các quốc gia đi vay chấp nhận tăng khoản thế chấp lên ngôi nhà của mình vì muốn “mở rộng phòng khách”. Có thể anh ta sẽ vay thêm, nhưng với khoản tiền gấp đôi so với mức cần thiết để còn có thể mua được một chiếc xe mới. Vì chính phủ chấp nhận khấu trừ thuế đối với lãi suất thế chấp nên lúc này anh ta được khấu trừ thuế cho phần lãi suất phải trả cho chiếc xe của mình. Nói cách khác, những quốc gia đi vay thường vay nhiều hơn mức cần thiết để sử dụng vào mục đích mua sắm nhưng lại được hưởng mức lãi suất ưu đãi cho tất cả các khoản vay. CÁC DỰ ÁN KINH DOANH Ở NGA ĐƯỢC MỸ ĐẢM BẢO Năm 1990, Ngân hàng Xuất - Nhập khẩu Mỹ đã thông báo sẽ bắt đầu cung cấp các khoản vay trực tiếp cho Nga. Trong khi đó, Tập đoàn Đầu tư Tư nhân Nước ngoài của Mỹ cung cấp “bảo hiểm” miễn phí cho những công ty tư nhân nào sẵn sàng đầu tư vào quốc gia Xô Viết cũ. Nói cách khác, Tập đoàn này đang thực hiện điều mà nó vẫn làm đối với tất cả các ngân hàng nhằm đảm bảo rằng nếu những khoản vay của các tập đoàn công nghiệp này rơi vào tình trạng tồi tệ thì chính phủ sẽ bù lỗ cho họ. Mức giới hạn cho khoản bảo hiểm đó là 100 triệu đô-la, quả là một con số hào phóng. Nhưng để khuyến khích được một lượng vốn tư nhân lớn hơn đổ vào Nga, Chính quyền Bush đã chỉ định sự bảo vệ vô hạn cho “những khoản đầu tư kinh doanh khổng lồ của Mỹ”. Nếu thực sự là những khoản đầu tư hiệu quả thì chúng sẽ không cần các khoản viện trợ nước ngoài hoặc sự đảm bảo của chính phủ. Điều thực sự đang diễn ra trong lối chơi này chính là ba căn cứ sau: 1. Các tổ chức cho vay quốc tế cung cấp tiền cho những người thuộc Đảng Dân chủ Xã hội để mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ các công ty của Mỹ. Không ai thực sự mong chờ họ hoàn trả số tiền này. Đây chỉ là một phương thức thông minh để tái phân bổ của cải từ người giàu sang cho người nghèo theo cách mà những người đang nắm giữ nó không hề hay biết. 2. Các công ty của Mỹ không cần tiền để tham gia. Vì khi những dự án của họ được đảm bảo thì các ngân hàng sẽ nóng lòng cho vay bất cứ khoản tiền nào được yêu cầu. Tính hiệu quả hoặc sự cạnh tranh không phải là những yếu tố quan trọng. Các hợp đồng được ký kết dựa trên sức ảnh hưởng về chính trị. Lợi nhuận lớn và không có rủi ro. 3. Khi những người ủng hộ Đảng Dân chủ Xã hội mất khả năng thanh toán cho các hợp đồng của mình với các công ty của Mỹ hoặc khi dự án làm thua lỗ do sự quản lý yếu kém, chính phủ liên bang sẽ cung cấp tiền để bù cho các khoản lợi nhuận kinh doanh và thanh toán các khoản vay ngân hàng. Vậy là bạn đã rõ: Những người ủng hộ Đảng Dân chủ Xã hội được nhận quà, các tập đoàn nhận lợi nhuận, còn các ngân hàng thì thu lãi từ những khoản tiền được tạo ra từ không khí. Và bạn biết những người nộp thuế nhận được gì! Năm 1992, mô hình chán ngắt này đã hiện hữu một cách rõ ràng. Trên tờ New York Times, phóng viên Leslie H. Gelb đã đưa ra những con số: Các quốc gia Xô Viết cũ lúc này chỉ đáp ứng được 30% tiền lãi (và hầu hết đều không bao gồm tiền gốc) cho khoản nợ 70 tỷ đô-la phải trả cho các nước phương Tây … Thông qua nhiều hình thức khác nhau, phương Tây đã viện trợ cho các nước Xô Viết cũ tổng số tiền là 50 tỷ đô-la kéo dài 20 tháng và số tiền đó hầu như biến mất không để lại dấu vết hoặc một nét vẽ nào trên bức tranh kinh tế.[26] Điều thú vị về bài báo này là Leslie Gelb trở thành thành viên của Hội đồng Quan hệ Quốc tế từ năm 1973. Tại sao một phát ngôn viên của tổ chức này lại phát tán đi một trong những thủ đoạn quan trọng nhất về Trật tự Thế giới mới? Câu trả lời là vì ông ta đang làm điều ngược lại. Trên thực tế, ông ta đang khẩn cầu thêm nhiều khoản vay và khoản viện trợ rõ ràng trên cơ sở nhu cầu quá lớn! Ông ta ủng hộ việc ưu tiên cấp vốn với sự quan tâm hàng đầu đối với các nhà máy điện hạt nhân, nông nghiệp và công nghiệp của Nga ở cuối bài báo, ông đã viết: “Số tiền đặt cược không thể cao hơn được nữa. Tất cả là vì khoản viện trợ đáng kể, thực tế và tức thì - chứ không vì những ảo tưởng lớn lao.” Nguyên nhân là nếu chúng ta không duy trì dòng tiền chảy vào thì Nga có thể lại rơi vào tay của những kẻ đang chầu chực để gây ra chiến tranh hạt nhân chống lại Hoa Kỳ. Quốc hội lắng nghe và làm theo. Bất chấp thực tế rằng số tiền hàng tỷ đô-la trước đó đã “biến mất không để lại dấu vết”, việc bơm tiền vẫn được tiếp tục. Năm 1993, Ngân hàng Thế giới đã cắt thêm một khoản vay nửa tỷ đô-la khác cho Nga. Trước khi kết thúc nhiệm kỳ, Tổng thống Bush đã thu xếp một khoản vay 2 tỷ đô-la khác thông qua Ngân hàng Xuất - Nhập khẩu; còn Quốc hội đã tạo ấn tượng với các cử tri bằng một khoản viện trợ trị giá 2,5 tỷ đô-la dành riêng cho Nga. Tháng Bảy năm đó, tại cuộc họp các quốc gia công nghiệp thuộc nhóm G7, 24 tỷ đô-la khác đã được hứa hẹn và một nửa trong số đó là do IMF cung cấp. Năm 1998, Nga đến hạn phải trả vài tỷ đô-la cho khoản nợ của mình, vì vậy, IMF đã tái cơ cấu những khoản vay cũ và đưa ra những khoản vay mới. Năm 1999, người ta đã phát hiện ra rằng các quan chức Nga từng “bỏ túi” 20 tỷ đô-la từ khoản tiền này. IMF đã công khai biểu lộ sự kinh ngạc của mình, nhưng vẫn nhanh chóng tiến hành các cuộc đàm phán để đưa ra những khoản vay mới. Khi cuốn sách này được xuất bản, câu chuyện trên vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. THUYẾT ÂM MƯU Phản ứng tức thời đối với những sự kiện này đã đưa chúng ta tới ngã rẽ của lương tâm. Chúng ta phải lựa chọn giữa hai con đường: hoặc kết luận rằng người Mỹ đã mất quyền kiểm soát đối với chính phủ của họ hoặc bỏ qua thông tin này và xem chúng như một sự xuyên tạc lịch sử đơn thuần. Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta trở thành những người ủng hộ cho quan điểm bí ẩn về lịch sử. Ở trường hợp thứ hai, chúng ta lại tán thành quan điểm ngẫu nhiên. Đây là một lựa chọn khó khăn bởi chúng ta đã quen với việc nhạo báng các thuyết âm mưu và ít ai dám công khai ủng hộ chúng. Mặt khác, chúng ta sẽ bị cho là ngớ ngẩn khi tán thành quan điểm ngẫu nhiên. Vì vậy, lịch sử là một chuỗi diễn biến liên tục của hết âm mưu đến âm mưu khác. Do đó, các âm mưu chính là tiêu chuẩn chứ không phải ngoại lệ. Các quốc gia công nghiệp hóa trên thế giới đang “chảy máu đến chết” trong một cuộc chuyển đổi của cải của mình sang cho những quốc gia kém phát triển trên quy mô toàn cầu. Vả lại, không phải kẻ thù mà các nhà lãnh đạo của những quốc gia này đang làm điều đó với chính đất nước của mình. Quá trình này được phối hợp hết sức tài tình giữa các quốc gia và hoàn toàn phù hợp với hành động của các nhà lãnh đạo khác - những người cũng đang thực hiện điều đó ở những nước khác - và họ thường gặp nhau để cải thiện hoạt động của mình. Điều này không thể xảy ra nếu không được lên kế hoạch. Người phát ngôn từ IMF trả lời vâng, đây đúng là một kế hoạch và mục đích của nó là để viện trợ cho những quốc gia kém phát triển. Nhưng sau bốn mươi năm cùng hàng trăm tỷ đô-la, họ đã hoàn toàn thất bại trong việc hoàn thành mục tiêu của mình. Liệu những người trí thức có tin rằng việc tiếp tục theo đuổi cùng một kế hoạch có tạo ra nhiều kết quả khác nhau trong tương lai không? Vậy thì tại sao họ lại tiến hành một kế hoạch - thứ không thể mang lại hiệu quả? Câu trả lời là họ không hề tiến hành theo kế hoạch đó. Họ đang thực hiện một kế hoạch khác: một kế hoạch rất thành công theo quan điểm của mình. Nếu không, chúng ta chỉ còn cách kết luận rằng các nhà lãnh đạo của những nước công nghiệp hóa chỉ toàn là những kẻ đần độn. Chúng ta không tin điều đó. Những người này đang thể hiện lòng trung thành cao hơn mức dành cho đất nước của họ. Trong tim mình, họ có thể thực sự tin tưởng rằng, về lâu dài, thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn cho chính họ, cho cả những đồng bào của họ. Tuy nhiên, họ không có cùng mục tiêu với những người đã đặt họ vào vị trí hiện tại, và đó chính là lý do vì sao họ phải che giấu kế hoạch của mình khỏi con mắt của dân chúng. Nếu đồng bào của họ biết được những điều họ thực sự đang làm thì chắc chắn họ sẽ bị tống khứ ra khỏi bộ máy chính phủ và trong một số trường hợp, thậm chí có thể bị xử bắn như những kẻ phản bội. Và nếu tất cả điều này là ngẫu nhiên thì làm gì có kế hoạch, hợp tác, mục đích, lừa gạt mà chỉ có những lực lượng mù quáng của lịch sử đi theo con đường ít bị kháng cự nhất. Đối với một số người, mô hình đó dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng chống lại điều đó, không chỉ ở những chương trước mà còn xuyên suốt cả cuốn sách này. Trong khi đó, bằng chứng về thuyết âm mưu này trong lịch sử lại chỉ là một trang giấy trắng. TỔNG KẾT Phiên bản quốc tế của trò chơi có tên gọi Sự Cứu trợ kinh tế cũng tương tự như phiên bản trong nước, trong đó, mục đích chung là buộc người nộp thuế thanh toán cho các khoản vay vỡ nợ để các ngân hàng vẫn có thể tiếp tục được nhận lãi. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở chỗ: (1) thay vì biện minh rằng đây là hành động bảo vệ dân chúng Mỹ thì lại chuyển sang thành hành động giải cứu thế giới thoát khỏi sự nghèo đói; và (2) dòng tiền chính chuyển qua IMF/Ngân hàng Thế giới bắt nguồn từ Cục Dự trữ Liên bang. Nói cách khác, các luật chơi căn bản đều giống nhau. Tuy nhiên, trò chơi này liên quan đến một khía cạnh khác ngoài phạm vi lợi nhuận và âm mưu đơn thuần. Đó là sự phát triển có nhận thức và có chủ ý của IMF/Ngân hàng Thế giới để trở thành ngân hàng trung ương thế giới với quyền phát hành tiền pháp định thế giới. Và đây là bước tiến quan trọng trong kế hoạch lớn hơn nhằm xây dựng một chính phủ thế giới thực sự trong khuôn khổ của Liên Hợp quốc. Những quốc gia vững mạnh về kinh tế không phải là những ứng viên sẵn sàng trao nộp chủ quyền của mình cho chính phủ thế giới. Vì thế, thông qua “những khoản vay” không bao giờ được hoàn lại, IMF/Ngân hàng Thế giới định hướng một cuộc dịch chuyển của cải với quy mô lớn từ những nước công nghiệp hóa sang những nước kém phát triển. Quá trình tiếp diễn này sẽ làm kiệt quệ nền kinh tế của các quốc gia công nghiệp hóa tới mức những nước này cũng phải cần đến viện trợ và tiếp theo là chấp nhận mất chủ quyền để đổi lấy viện trợ quốc tế. Mặt khác, những nước kém phát triển tham dự vào Trật tự Thế giới Mới theo một lộ trình hoàn toàn khác. Nhiều nước trong số này chịu sự cai trị của những tên bạo chúa tàn ác - những kẻ chẳng màng đến sự an nguy của dân chúng mà chỉ quan tâm đến việc làm sao để bòn rút thật nhiều tiền thuế từ người dân mà không gây ra bạo loạn. Những khoản vay từ IMF/Ngân hàng Thế giới chủ yếu được dùng để duy trì quyền lực của chính những tên bạo chúa này và các phe cánh của chúng - và đó chính là điều mà IMF/Ngân hàng Thế giới muốn hướng tới. Tuy nhiên, với cách nói hoa mỹ là giúp đỡ người nghèo, mục đích thực sự của sự dịch chuyển của cải được ngụy trang như những khoản vay là để giành quyền kiểm soát toàn diện đối với các nhà lãnh đạo của những nước kém phát triển - những tên bạo chúa không bao giờ từ bỏ sở thích được thưởng thức vị ngọt của nguồn cung tiền vô hạn một khi đã ném thử nó. Rồi họ sẽ hài lòng - đã hài lòng - để trở thành những chiếc bánh răng nhỏ được dát vàng trong một cỗ máy khổng lồ của chính phủ thế giới. Đến lúc này, ý thức hệ tư tưởng cũng chẳng có nghĩa lý gì đối với họ bởi miễn sao cứ luôn có tiền là được. Vì vậy, IMF/Ngân hàng Thế giới thực sự đang mua lại những nước này bằng chính đồng tiền của Hoa Kỳ. Sự tham gia của Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây trong danh sách các nước nhận viện trợ của IMF/Ngân hàng Thế giới là dấu hiệu về hiệp đấu cuối cùng của trò chơi. Lúc này, khu vực Mỹ La-tinh và châu Phi đã được “mua” về để cùng tham gia vào Trật tự Thế giới Mới, đây chính là giới hạn cuối cùng. Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, Trung Quốc, Nga và khu vực Đông Âu đã trở thành những con nợ lớn nhất và đã chậm thanh toán các khoản nợ của mình. Đây chính là nơi trú ẩn cho hành động tiếp theo.