Vân Đài Loại Ngữ - Quyển 3 - Chương 06

Sách ấy chép: Ngày 26 tháng 11 niên-hiệu Chí-nguyên thứ 25 (1288) đời Nguyên Thế-tổ, sứ-bộ nhà Nguyên rời khỏi Yên-kinh. Ngày 28 tháng 2 niên-hiệu Chí-nguyên thứ 26 (1289) sứ-bộ nhà Nguyên đến nước ta (thời-gian hành-trình độ 3 tháng 3 ngày). Tôi tưởng là sứ-bộ vừa đi xe vừa cỡi ngựa.

Quốc-vương nhà Trần tiếp-kiến sứ-giả với lễ ý chất-phác và thành thật.

Sau công-quán dành cho sứ-giả có hai lớp nhà. Vua nhà Trần do cửa sau vào trong ấy, mở cửa giữa mời sứ-giả đến. Vua đứng chắp tay xá chào, hỏi thăm long-thể vua Nguyên cùng an-ủi sứ-giả đi đường được yên-ổn mà thôi.

Lễ tuyên-chiếu ở điện Tập-hiền cũng giản-lược. Vua đứng trước vái hai vái khi dâng hương, rồi vái hai vái khi đọc tờ chiếu.

Người dự nghe là những quan hầu-hạ ở hai bên của Vua, chớ không có triệu-tập bá-quan tăng-giới đạo-sĩ và kỳ-lão.

[35a] Lễ xong thì thết yến đãi sứ-giả.

Ngày hôm sau mời sứ-giả xem bản sơ cảo của tờ biểu.

Ngày kế lại mời sứ-giả xem Vạn Phật, tình ý và văn-chương thù-tạc rất chu-đáo.

Còn bản danh-mục ghi tên những sản-vật địa-phương toàn là những món quý báu khó được ở Trung-quốc.

Dưới thời nhà Trần thuyền buôn thông-thương với các nước. Vóc đoạn của Âu-tây, vài màu chân châu, lông chim trả, kim-la ở Ja-va, gấm man, chim ưng, cá sấu, tê, voi, trầm-hương, đàn-hương, không gì là không có, đều là những món đời sau ít có.

Bài Kinh-khê sớ của người nhà Minh chép: Chợ nào ăn đến bến nước thì người xưa gọi là bộ[170].

Nước Nam ta có nhiều tên như thế, như: Đông-bộ, Đại-thông-bộ.

Đầu niên-hiệu Kiền-long (1736) đời vua Cao-tông nhà Thanh, có người Tàu hay thơ đáp thuyền buôn đến trấn Sơn-nam làm bài Nhĩ-hà-xuân [35b] du phú (bài phú chơi xuân trên sông Nhĩ) và vịnh tám cảnh ở kính-đô nước An-nam.

Thơ ấy được chép ra như sau:

一御樓觀濤

合璧雙輝耀羽旄

海天空闊御樓高

三層朱户開金鎖

八面韶光映錦袍

花柳含煙連闕逈

山川乘氣著人豪

黄龍朱雀貔貅外

鶴唳風聲演怒濤

Ngự lâu quan đào.

Hợp bích song huy[171] diệu vũ mao,

Hải thiên không thoát ngự lâu cao.

Tam tằng chu hộ khai kim-tỏa,

Bát diện thiều quang ánh cẩm-bào.

Hoa liễu hàm yên liên khuyết huýnh,

Sơn xuyên thừa khí trứ nhân hào.

Hoàng long chu tước tỳ hưu ngoại.

Hạc lệ phong thanh diễn nộ đào.

Dịch nghĩa

1. Lầu ngự xem sóng.

1. Hai vừng nhật nguyệt soi chiếu cờ mao.

2. Ngôi lầu ngự cao vút bên trời không biển rộng.

3. Ba từng cửa son, khóa vàng đã mở.

4. Tám mặt ánh xuân giọi chiếu áo cẩm-bào của vua.

5. Bông hoa và tơ liễu đượm khói sương liền với cung khuyết xa xa.

6. Núi sông bốc linh khí làm tỏ rạng bậc anh hào.

7. Ngoài quân-sĩ và chiến thuyền có vẽ hình rồng vàng và chim sẻ đỏ.

8. Có tiếng hạc kêu gió thét và cảnh ba đào diễn ra dữ dội.

Dịch thơ

Cờ mao nhật nguyệt chiếu soi,

Ngự lâu cao vút biển trời rộng không.

Khóa vàng cửa đỏ mở xong,

Cẩm-bào rạng chiếu ánh hồng tám phương.

Liễu hoa cung khuyết khói vương,

Non sông linh khí rạng gương anh-hùng.

Quân binh chu tước hoàng long,

Hạc kêu gió thét đùng đùng sóng vang.

二看山夕照

細柳餘輝散落霞

滿城樹色半歸鴉

樓臺幾處驚鴛瓦

丘壑千重賦兔罝

捲巿初忙沽酒店

養生終老釣魚家

看山寺北池塘晚

春草田疇岸岸蛙

II. Khán-sơn tịch chiếu.

Tế liễu dư huy tán lạc hà,

Mãn thành thụ sắc bán quy nha.

[36a] Lâu-đài kỷ xứ kinh uyên ngõa,

Khâu hác thiên trùng phú Thố-ta.

Quyền thị sơ mang cô tửu điếm,

Dưỡng sinh chung lão điếu ngư gia.

Khán-sơn tự bắc trì đường vãn,

Xuân thảo điền trù ngạn ngạn oa.

Dịch nghĩa

II. Nắng chiều ở núi Khán-sơn.

1. Ánh nắng chiều còn thừa lại chiếu lên cành liễu mành, còn mây hồng thì tan mất.

2. Khắp thành chỉ thấy màu cây xanh, đàn quạ đang bay về ở nửa chừng.

3. Mấy chỗ ở trên lâu-đài kinh động ngói uyên-ương[172].

4. Gò đống ao rãnh ngàn trùng vang tiếng hát bài thơ Thố-ta[173].

5. Chợ tan bắt đầu bận rộn nhà hàng rượu.

6. Nhà câu cá lặng-lẽ sống an nhàn để doanh dưỡng kiếp sống cho trọn tuổi già.

7. Chỗ bờ ao phía bắc ngôi chùa trên núi Khán-sơn lúc về chiều,

8. Mọi bờ ruộng đầy cỏ mùa xuân đều đầy ếch nhái.

Dịch thơ

Ráng tan bóng xế liễu mành,

Quạ về nửa chặng, khắp thành màu cây.

Ngói uyên kinh động lâu-đài,

Thố-ta nghe khắp rãnh đồi hát vang.

Chợ tan bận rộn tửu hàng,

Dưỡng sinh ngư-phủ sống an tuổi già.

Khán-sơn ao nước chiều tà,

Cỏ xuân bờ ruộng lân-la nhái bầy.

三清池問津

竹樹煙雲覆草亭

满江春色向人青

春風細拂桃花浪

野岸初分白鷺汀

遊倦不同行客懶

醉迷多在扁舟醒

津頭漫問乘波者

指點清池補水經

III. Thanh-trì vấn tân.

Trúc thụ yên vân phú thảo đình,

Mãn giang xuân sắc hướng nhân thanh.

Xuân phong tế phất đào hoa lãng,

Dã ngạn sơ phân bạch lộ thinh.

Du quyện bất đồng hành khách lãn,

Túy mê đa tại biển chu tinh,

Tân đầu mạn vãn thừa ba giả,

Chỉ điểm Thanh-trì bồ Thủy-kinh.

Dịch nghĩa

III. Hỏi tìm bến Thanh-trì[174].

1. Tre cây khói mây phủ lấy ngôi đình lợp cỏ tranh,

2. Sắc xuân đầy sóng hướng màu xanh biếc vào người.

3. Gió xuân phất nhẹ, sóng nước đầy hoa đào,

4. Đồng nội vừa phân rõ bờ nước đầy cò trắng.

5. Hành-khách biếng nhác với nỗi đi chơi mỏi chân không đồng nhau.

6. Say sưa mê mỏi rồi thì phần nhiều lại tỉnh ở trong thuyền con.

7. Đầu bến hỏi khắp những ai đi trên sóng nước,

8. Chỉ bảo bến Thanh-trì để bổ-túc bộ Thủy-kinh[175].

Dịch thơ

Trúc mây cây phủ đình tranh,

Đầy sông xuân sắc, giọi xanh hướng người.

Gió xuân gợn sóng đào rơi,

Bờ đồng cò đậu trắng-ngời phân minh.

Mỏi chân biếng nhác bộ hành.

Mê rồi lại tỉnh đặt mình thuyền xuôi.

Hỏi thăm khách lướt sóng nhồi,

Thủy-kinh bổ túc, chỉ nơi Thanh-trì.

四菩提遠朓

遠朓菩提驛路東

往來生齒自無窮

鷄鳴殘月催行客

雲捲長途見塞翁

竹暗淡搖村落雨

樹高低過廟前風

荒營歲久迷蓬卉

誰識當年野戰功

IV. Bồ-đề viễn thiếu.

[36b] Viễn thiếu Bồ-đề dịch lộ đông,

Vãng lai sinh xỉ tự vô cùng.

Kê minh toàn nguyệt thôi hành khách,

Vân quyền trường đồ kiến tái ông.[176]

Trúc ám đạm dao thôn lạc vũ,

Thụ cao đê quá miếu tiền phong.

Hoang doanh tuế cửu mê bồng hủy,

Thùy thức đương niên dã chiến công?

Dịch nghĩa

IV. Bồ-đề xa trông.

1. Xa nom đường trạm Bồ-đề chạy về hướng đông,

2. Người ta qua qua lại lại không dứt để lo việc sinh nhai.

3. Gà gáy trăng tàn thôi thúc hành khách.

4. Mây cuốn đường dài gặp khách đi ở cửa ải.

5. Bụi tre ảm-đạm tối-tăm lay động lúc mưa rơi ở trong xóm,

6. Cây ngọn cao ngọn thấp khi gió thổi qua trước miếu.

7. Doanh trại bỏ hoang đã lâu năm, cỏ bồng cỏ dại mọc tối-tăm um-tùm.

8. Thì ai còn biết chiến công đánh giặc ở đồng nội chỗ Bồ-đề của vua Lê Thái-tổ nữa?

Dịch thơ

Bồ-đề đường trạm xa trông,

Người người qua lại không cùng sinh nhai.

Trăng tàn gà gáy dục người,

Gặp người quan ải đường dài cuốn mây.

Xóm mưa tăm-tối tre lay,

Thấp cao cây động miếu ngoài gió tung.

Doanh hoang che khắp cỏ hồng,

Còn ai biết đến chiến công bấy giờ?

五報天曉鐘

塔撑鯨吼噉名區

萬象煙涵混沌刳

樹色浮沉宮殿曉

水光上下海天迂

簾蘢花雨消銀漏

山映粧樓喚鷓鴣

誰是無憂高扰卧

肯忘梵响醒迷途

V. Báo thiên hiểu chung.

Tháp xanh kình hống hám danh khu,

Vạn tượng yên hàm hỗn độn khô.

Thụ sắc phù trầm cung điện hiểu,

Thủy quang thượng hạ hải thiên vu.

Liêm lung[177] hoa vũ tiêu ngân lậu,

Sơn ánh trang lâu hoán chá-cô.

[37a] Thùy thị vô ưu cao chẩm ngọa,

Khẳng vong phạm hưởng tỉnh mê đồ?

Dịch nghĩa

V. Chuông sớm tháp Báo-thiên.

1. Ham khu-vực nổi tiếng về thắng cảnh có tháp cao chống trời, và tiếng chuông rền,

2. Khói mây muôn hình tượng hỗn-độn được phân-minh (khi trời sáng).

3. Trong màu cây cỏ, cung điện sáng tỏ, cái nhô lên cái thấp xuống.

4. Trong ánh nước, trời ở trên biển ở dưới thấy xa-xôi.

5. Qua bức rèm thấy thấp-thoáng hoa rơi khi đồng-hồ bằng bạc đã cạn nước.

6. Sắc núi giọi vào lầu trang điểm, có chim chá-cô (gà-gô) gọi nhau.

7. Ai là người không ưu phiền nằm gối đầu lên cao,

8. Chịu quên tiếng chuông của nhà Phật mà thức tỉnh trên con đường lầm-lạc?

Dịch thơ

Tháp cao chuông giộng danh khu,

Muôn hình hỗn-độn khói mù phân khai.

Sắc cây cung điện sáng soi,

Dưới trên ánh nước biển trời mờ xa.

Cách rèm lậu cạn mưa hoa,

Lầu trang núi giọi hòa gà-gô.

Nào ai yên giấc không lo,

Chịu quên chuông phật mê đồ tỉnh ra?

六白馬趁巿

蟻聚和風暖巿塵

纷紛舞袖帀肩春

舟車並至耽長日

商買殊推集衆輪

廟底飛雷多暗室

爐前灝氣有唐神

黄昏不比蒼涼地

户户分燈闘酒賓

VI. Bạch-mã[178] sấn thị.

Nghị tụ hòa phong noãn thị trần.

Phân phân vũ tụ táp kiên xuân.

Chu xa tịnh chí đam trường nhật,

Thương mãi thù suy tập chúng luân.

Miếu đề phi lôi đa ám thất,

Lô tiền hạo khí hữu đường thần.

Hoàng hôn bất tỷ thương lương địa.

Hộ hộ phân đăng đấu tử tân

Dịch nghĩa

VI. Đến chợ Bạch-mã.

1. Người ta đông-đảo (như bầy kiến tụ-tập) và gió hòa làm bụi cát dấy lên khiến buổi chợ thấy ấm áp.

2. Dập-dìu người ta múa ống tay áo vòng vai nhau dạo chợ xuân.

3. Thuyền xe cùng lướt đến vui rộn suốt ngày dài.

4. Người ta buôn bán xô xẩy thôi thúc nhau, xe-cộ tụ-tập lại đông-đảo.

5. Sau miếu sấm bay (?) có nhiều nhà cửa tối-tăm.

6. Trước lò hương hạo khí xông lên, có vị thần hoang-đường (?).

7. Hoàng-hôn ở đấy không sánh với nơi lạnh-lẽo.

8. Nhà nhà đều lên đèn để khách uống rượu đua chén với nhau.

Dịch thơ

Gió hòa bụi chợ người đầy,

Ống tay phất-phới vòng vai xuân hòa.

Ngày dài vui rộn thuyền xa,

Bán buôn xô đẩy, xe đà tụ vây.

Sau đền nhà tối sấm bay,

Đường thần bạo khí ở ngay trước lò.

Hoàng-hôn chốn lạnh chẳng so,

Nhà nhà đèn lửa, khách lo tạc-thù.

七珥河歸帆

萬古依稀珥水微

潮平風上布帆歸

不殊玉壘開天塹

却作金城固帝畿

南國文章烝斗璧

西園詩酒噴珠璣

流風餘韻清平際

猶見黄龍白晝飛

VII. Nhĩ-hà quy phàm.

Vạn cồ y hy Nhĩ thủy vi,

Triều bình phong thượng bố hàm quy.

[37b] Bất thù ngọc lũy khai thiên tạm,

Khước tác kim thành cố đế kỳ.

Nam-quốc văn-chương chưng đầu bích.

Tây-viên thi tửu phún chu ky.

Lưu phong dư vận thanh bình tế,

Do kiến hoàng long bạch trú phi.

Dịch nghĩa

VII. Cánh buồm về trên sông Nhĩ.

1. Sông Nhĩ-hà thâm-u phảng-phất như muôn thuở xưa kia,

2. Trên thủy-triều bằng-phẳng gió lên cánh buồm vải trở về.

3. Không khác gì lũy ngọc, hào nước được mở ra làm chướng-ngại-vật thiên-nhiên,

4. Lại làm bức thành vàng mà củng-cố kinh-đô của vua.

5. Văn-chương nước Nam quý báu như viên ngọc-bích to bằng cái đấu,

6. Thơ rượu ở Tây-viên thì nhả ngọc phun châu.

7. Trong buổi thanh-bình phong vận đẹp-đẽ còn lưu truyền,

8. Còn thấy con rồng vàng bay giữa ban ngày khi vua Lý Thái-tổ dời đô về Thăng-long.

Dịch thơ

Thâm-u muôn thuở Nhĩ-hà,

Nước bằng gió dậy thuyền đà về xuôi.

Giống như lũy ngọc ao trời,

Thành vàng che chở khắp nơi đế kỳ.

Việt-văn ngọc bích sánh bì,

Vườn tây nhả ngọc tửu thi tài tình.

Còn truyền thanh vận thái-bình,

Ban ngày bay thấy rõ hình hoàng long.

八浪泊漁歌

一棹漁歌嘯晚風

滄浪随分自西東

相忘甲子拘皇曆

每事魚蝦識帝功

掌上酒杯懸白蟻

壺邊詩思羡冥鴻

蘆花笛袖橫宮闕

吹斷閑雲繫短蓬

VIII. Lãng-bạc ngư ca.

Nhất trạo ngư ca khiếu vãn phong.

Thương-lang tùy phận tự tây đông.

Tương vong giáp tý câu hoàng-lịch,

Mỗi sự ngư hà thức đế công.

Chưởng thượng tửu bôi huyền bạch nghị,

Hồ biên thi tứ tiễn minh hồng.

Lư hoa địch tụ hoành cung khuyết.

Xuy đoạn nhàn vân hệ đoản bồng.

Dịch nghĩa

VIII. Bài ca của ngư-ông ở hồ Lãng-bạc.

1. Đẩy một chèo, người đánh cá hát ngân vang trong gió chiều.

2. Trên sông Thương-lang tùy theo phận mình mà kẻ sang đông người sang tây.

3. Họ giữ sách lịch của vua mà quên cả ngày tháng.

4. Mỗi khi lo việc bắt cá tôm thì biết đến công ơn của vua.

5. Chén rượu trên tay có bọt trắng[179] sủi lên,

6. Ý tứ làm thơ ở bên bình rượu là thích lánh đời như chim hồng bay bổng vút lên cao[180].

7. Trong vùng bông lau, tiếng sáo thổi vọng lên ngang cung khuyết của vua,

8. Thổi tan đám mây lờ-lững vướng mắc theo cánh buồm ngắn.

Dịch thơ

Ngư-ông hát vọng gió chiều,

Thương-lang tùy phận dập-dìu đông tây.

Lịch vua quên cả tháng ngày,

Cá tôm được bắt lòng hoài đế công.

Trên tay chén rượu bọt nồng,

Bên hồ ý luyến cánh hồng vút cao.

Ngang cung tiếng địch bên lau,

Thổi tan mây lững mắc vào buồm con.