Vân Đài Loại Ngữ - Quyển 7 - Chương 05

Phục-Kiền chú:

Thân-Đồ-Địch là người đời nhà Ân.

Hàn thi ngoại truyện chép: Thân-Đồ-Địch ghét đời sắp trầm mình xuống sông. Thôi-Nghĩa hay được, ngăn lại. Thân-Đồ-Địch bảo: “Vua Kiệt[879] giết Long-Phùng, vua Trụ[880] giết Tỷ-Can mà mất thiên hạ, vua nước Ngô[881] giết Ngũ-Tử-Tư, vua nước Trần giết Tiết-Dã mà mất nước.

Cho nên tan nhà mất nước không phải là không có bậc thánh trí, nhưng có bậc thánh trí mà không dùng vậy thôi!” .

Nói xong Thân-Đồ-Địch ôm đá trầm mình ở sông.

Về thời-đại thì khác với lời chú của Phục-Kiền.

Việc nầy lại thấy ở sách Trang-Tử và sách Lữ-lãm[882] nhưng lời chú đều không nói Thân-Đồ-Địch là người đời nào.

Thiên Khảo công ký trong sách Chu-lễ chép: Ngồi mà bàn luận đường lối chính-trị, đó là chức Tam-công. Lập đường lối chính-trị mà thi-hành, đó là chức [15a] sĩ đại-phu.

Dương-Ngung đời Hán cũng dẫn điều này.

Sách Thuyết-uyển chép: Vua Nghiêu gặp vua Thuấn mà bóng dâu chưa dời chuyển. Vua Văn-vương nhà Chu cử Ông Thái-công mà ngày chưa tối. Cho nên bậc thánh-hiền tiếp-xúc nhau không chờ lâu mới thân nhau.

Sách Quảng bác vật chí chép: Vua Nghiêu gặp ông Thuấn ở phía nam Phục-trạch, ngoảnh mặt về phía nam nói chuyện với ông Thuấn, ngồi ở Long-điệt dưới bóng mát cây dâu. Bóng dâu chưa chuyển dời mà vua Nghiêu hiểu được tâm chí của ông Thuấn.

Hai thuyết nầy đủ để bổ-khuyết cho sách Sử-ký.

Ngụy-Vô-Tri cháu nội của Công-tử Vô-Kỵ, sử nhà Hán không chép được phong ở đất nào.

Sách Hậu Ngụy thư tự truyện chép: Cao-đế phong làm Cao-lương-hầu 高良候.

Sách Đường thư thế hệ biểu lại chép là Lương-hầu 粱候, không biết căn cứ ở đâu.

[15b] Trong bài Trị an sách của Giả-Nghị có câu: Người giết bò tên Viên một buổi sáng xẻ mười hai con bò.

Sách Tô lâm ký chép: Viên là người cùng một thời với Khổng-Tử.

Nhan-Sư-Cổ chú: Việc nầy thấy ở sách Quản-Tử.

Dưới thời Hán Vũ-đế, Tam-lão Mậu dâng thư, mà sử của họ Ban (tức Hán-thư) không chép của họ Mậu.

Tuân-Duyện chép là Lịnh-Hồ-Mậu.

Theo sách Hán-thư, Quý-Bố[883] nói: “Quân Hung-nô vây Cao-đế ở Bình-thành, Phàn-Khoái[884] không giải vây nổi. Thiên-hạ hát về việc ấy rằng:

平城之下亦誠苦

七日不食不能彀弩

“Bình-thành chi hạ diệc thành khổ

“Thất nhật bất thực bất năng cấu nổ.

Dịch nghĩa

(Binh-sĩ) dưới Bình-thành cũng thật là khổ,

Bảy ngày không ăn thì giương nỏ không nổi.

Dịch thơ

Khổ thay quân sĩ Bình-thành!

Không ăn bảy bữa, nỏ đành chẳng giương.

Nay tiếng hát nầy vẫn chưa dứt.

Sách Thông-giám xén cắt câu hát nầy, cho nên lời nói không được minh bạch.

Theo sách Hán-thư, năm đầu niên-hiệu Nguyên-phong (109 trước Tây-lịch), cỏ chi[885] mọc ở trai phòng (phòng đọc sách) cung Cam-tuyền[886]. Có bài hát rằng:

齋房產草

九莖連葉

宮童效異

披圖案諜

玄氣之精

回復此都

蔓蔓日茂

芝生靈花

Trai phòng sản [16a] thảo

Cửu hành liên diệp

Cung đồng[887] hiệu[888] dị

Phi đồ án điệp[889]

Huyền khí[890] chi tinh

Hồi phục thử đô

Man man nhật mậu

Chi sinh linh hoa

Dịch nghĩa

1) Ở trai phòng mọc thứ cỏ,

2) Chín cộng liền lá.

3) Cung đồng cho là điềm lạ-lùng.

4) Mới mở đồ án ra xem.

5) Biết đó là tinh anh của huyền khí

6) Đã trở lại chốn ấy.

7) Mọc lan ra ngày thêm rườm-rà.

8) Cỏ chi sinh ra hoa thiêng.

Dịch thơ

Cỏ chi mọc ở trai phòng,

Sởn-sơ chín cộng liền cùng lá tươi.

Cung đồng: Điềm lạ trên đời,

Mở toang đồ án xét coi đành rành,

Biết là huyền khí tinh anh,

Tụ về chốn ấy, phúc lành trở sang.

Rườm-rà ngày cứ mọc lan,

Cỏ chi đơm kết rõ-ràng hoa thiêng.

Trong niên-hiệu Thái-thủy thứ 3 (94 trước Tây-lịch), vua Vũ-đế nhà Hán đi chơi ở Đông-hải bắt được chim nhạn đỏ, mới làm thơ rằng:

象載瑜白集西

食甘露飲榮泉

赤雁集六紛員

殊翁雜五彩文

神所見施福祉

登蓬萊浩無極

Tượng tái du[891] bạch tập tây[892].

Thực cam lộ, ẩm vinh tuyền.

Xích nhạn tập lục phân viên[893].

Thù ông[894] tạp ngũ thái văn.

Thần sở hiện, thi phúc chỉ.

Đăng Bồng-lai, hạo vô cực.

Dịch nghĩa

1) Chiếc xe đẹp-đẽ màu trắng chạy về phương tây.

2) Người trên xe ăn móc ngọt, uống suối vinh.

3) Chim nhạn đỏ đậu lại sáu con rất nhiều.

4) Lông ở cổ lạ-lùng có năm màu chen lộn.

5) Thần ứng hiện, ban cho phúc lành.

6) Thần lên núi Bồng-lai lớn rộng vô cùng.

Dịch thơ

Xe trắng đẹp về tây rong chạy,

Cam lộ ăn, uống lấy suối vinh,

Sáu chim nhạn đỏ xinh xinh.

Năm màu lông cổ tinh anh lạ-lùng.

Phúc ban cho, thần cùng hiện xuất.

Lên Bồng-lai rộng thật vô cùng.

Người trong niên-hiệu Nguyên-đỉnh thứ 5 (112 trước Tây-lịch) người ta được cái đỉnh ở Phần âm (phía nam sông Phần) bèn làm bài thơ rằng:

景星顯見

信星彪列

象載昭庭

日觀以察

参侔開闔

爰推本紀

汾雎出鼎

皇祐元始

Cảnh tinh[895] hiển hiện

Tín tinh[896] bưu liệt

Tượng tái chiêu đình

Nhật quan dĩ sát

Tham mâu[897] khai hạp[898]

Viên suy bổn kỷ[899]

Phần thư xuất đỉnh

Hoàng hựu nguyên thủy.

Dịch nghĩa

1) Sao Cảnh-tinh hiển hiện.

2) Sao Tín-tinh bày ra rực-rỡ.

3) Đã thành hiện tượng rạng-rỡ ở vương đình.

4) Trông hằng ngày để xem xét.

5) Cùng tham dự ngang hàng với trời đất.

6) Bèn suy tầm ở phần Bổn-kỷ.

7) Cái đỉnh xuất hiện ở đất Phần-thư,

8) Là cái phúc đầu tiên của Hoàng-gia.

Dịch thơ

Cảnh-tinh hiển-hiện trên trời,

Tín-tinh đã thấy rạng-ngời bày ra.

Vương đình hiện-tượng sáng lòa.

Hằng ngày trông thấy để mà xét soi.

Ngang hàng tham dự đất trời.

Suy tầm Bổn-kỷ các đời đế vương.

Phần-thư đỉnh hiện rõ-ràng.

Đầu tiên phúc lớn của hoàng-đế gia.