Vân Đài Loại Ngữ - Quyển 7 - Chương 07

TÂY TUẦN TỤNG

(Bài tụng về việc đi tuần thú phương Tây)

惟秋穀旣登

上將省斂

平秩西成

巡狩于西郊

因玆萬物

凝德緩俗

昔旣春遊

今乃秋豫

Duy thu cốc ký đăng.

Thượng tương tỉnh liễm.

Bình trật[922] tây thành[923]

Tuần thú vu tây giao.

Nhân tư vạn vật

Ngưng đức hoãn tục.

Tích ký xuân du

Kim nãi thu dự

Dịch nghĩa

1) Lúa mùa thu đã chín.

2) Vua sắp ra xem gặt lúa.

3) Công việc làm lúc lúa chín vào mùa thu đã làm xong.

4) Vua đi tuần vùng phía tây.

5) Nhân nay vạn vật

6) Đạo-đức đã thành tựu, phong-tục đã hòa hoãn.

7) Xưa đã dạo chơi xuân.

8) Nay lại đi dạo vui chơi mùa thu.

Dịch thơ

Lúa mùa thu chín rồi.

Xem gặt vua theo thời.

Công việc mùa thu dứt.

Tây giao tuần thú chơi.

Hôm nay nhân vạn vật

Tục hoãn đức thành rồi.

Đã dạo xuân ngày trước.

Nay vui thu thảnh-thơi.

ĐÔNG TUẦN TỤNG

(Bài tụng về việc vua đi tuần phương Đông)

於皇維烈

允廸厥倫

纘王命

胤漢動

矩坤度以範物

規乾則以陶均

乃命太僕訓六騶

閑駱馬訓師徒

升九龍之華旗

建翠貎之旌旄

襃胡耈之元老

賞孝行之駿農

Ô[924]! Hoàng[925] duy liệt[926]!

Doãn địch[927] quyết luân

Toản vương mệnh,

Dận Hán huân,

Củ Khôn độ dĩ phạm vật,

Quy Kiền tắc dĩ đào quân.

Nãi mệnh Thái-bộc[928] huấn lục trưu[929]:

Nhàn lạc mã huấn sư [19b] đồ,

Thăng cửu long chi hoa kỳ,

Kiến thúy nghê chi tinh mao.

Bao hồ cấu[930] chi nguyên lão[931],

Thưởng hiếu hạnh chi tuấn nông.

Dịch nghĩa

1) Ôi! Công-nghiệp của vua lớn-lao thay!

2) Đã chân-thành noi theo đường đạo lý.

3) Nối mệnh trời của vua,

4) Kế công-nghiệp của nhà Hán,

5) Noi phép độ của đất để khuôn mẫu vạn vật,

6) Theo phép tắc của trời để đào-tạo muôn loài,

7) Bèn sai quan Thái-bộc huấn-luyện sáu viên đánh xe của vua:

8) Tập luyện ngựa lạc (ngựa trắng bờm đen) và dạy-dỗ quân-sĩ,

9) Trương lên cờ bông có thêu chín con rồng,

10) Dựng cờ tinh (có lông bò gắn ở đầu gù) có hình con sư-tử xanh biếc.

11) Khen ngợi bậc nguyên lão già cả

12) Tặng thưởng nông-phu mạnh khỏe có hiếu hạnh.

Dịch thơ

Ôi! Nghiệp vua vô cùng vĩ đại!

Đạo lý thì noi mãi chân thành.

Mệnh trời kế tiếp thuận hành,

Nối theo nghiệp Hán sẵn dành bấy nay,

Noi phép đất đặt bày khuôn mẫu,

Theo độ trời đào-tạo muôn loài,

Chức quan Thái-bộc vội sai:

Sáu viên đánh ngựa miệt mài luyện trau,

Tập ngựa lạc, dạy mau quân đội,

Trương cờ hoa rõ chói chín rồng,

Thúy nghê cờ ấy dựng xong.

Tuổi cao nguyên lão tỏ lòng ngợi khen,

Hiếu hạnh nông dân bèn tặng thưởng.

NAM TUẦN TỤNG

(Bài tụng về việc vua đi tuần thú miền Nam)

惟休烝之鴻德

允天覆而無遺

壯雲行之溥惠

淑雨施於庶黎

Duy hưu chưng[932] chi hồng đức,

Doãn thiên phú nhi vô di,

Tráng vân[933] hành chi phổ huệ[934],

Thục vũ[935] thí ư thứ lê

Dịch nghĩa

1) Đức của vua lớn-lao và đẹp-đẽ,

2) Thật như trời che phủ không bỏ sót ai,

3) Như ân huệ rộng khắp của đám mây bay to lớn

4) Đổ mưa lành xuống dân đen.

Dịch thơ

Đức vua lớn đẹp vô cùng,

Như trời cao phủ chẳng hòng sót ai,

Như ơn cả đám mây bay

Đổ mưa lành xuống khắp bầy dân đen.

BẮC TUẦN TỤNG

(Bài tụng về việc vua đi tuần thú miền Bắc)

I

雍容清廟

謐爾無虞

垂栱穆穆

神行化驅

Ung dung[936] thanh miếu,

Mật[937] nhĩ vô ngu,

Thùy củng mục mục,

Thần hành hóa khu.

Dịch nghĩa

1) Ung-dung ngôi miếu thanh tịnh,

2) Yên lặng không có điều lo,

3) Rủ áo khoanh tay cung kính,

4) Lấy giáo hóa mà khu sử (sai khiến) nhân-dân rất mỹ-mãn như thần thánh thi-hành.

Dịch thơ

Miếu đường thanh tĩnh ung-dung,

Cho nên lặng-lẽ, lòng không ưu-hoài,

Uy-nghi rủ áo khoanh tay,

Đã dùng giáo hóa khiến sai như thần.

II

禋潔享衹

歆嘗百神

爰始賦政

授務于人

Ấn khiết hưởng kỳ.

Hâm[938] thường[939] bách thần.

Viên thủy phú[940] chính,

Thụ vụ vu nhân.

Dịch nghĩa

1) Cúng tế tinh khiết để thần hưởng mà cầu phúc.

2) Trăm vị thần nếm hưởng lễ vật cúng tế.

3) Rồi mới ban cho chính lịnh,

4) Trao công việc cho mọi người.

Dịch thơ

Tế tinh khiết cầu phúc lành,

Bách thần thụ hưởng, lòng thành cảm thông.

Rồi ban chính lịnh cho xong,

Mọi người đều được trao công việc làm.

Sách Trang-tử[941] chép: Khổng-Tử nói với Sở-vương: “Tôn-Thúc-Ngao[942] chỉ ngủ ngon và cầm cây lông[943] mà người nước Sính rút quân về” .

Trong sách Văn-tuyển, bài văn bia của Chử-Uyên làm có câu: Tuy vô thụ thận xuất xa chi phong, diệc hữu cam tẩm bỉnh vũ chi tích 雖無受脤出車之風亦有甘寢秉 羽之績. Nghĩa là: Tuy không có phong cách nhận phần thịt cúng tế và đem xe đi đánh, nhưng cũng có công ngủ yên cầm cây lông mà lui được giặc.

[20a] Sách Văn hiến thông khảo có chép bài Phá trận nhạc từ như sau:

受律辭元首

將相討叛臣

咸歌破陣樂

共賞太平人

Thụ luật từ Nguyên thủ,

Tướng tướng thảo bạn thần,

Hàm ca Phá trận nhạc,

Cộng hưởng thái-bình nhân.

Dịch nghĩa

1) Nhận quân luật bái từ Vua,

2) Tướng võ và tướng văn đi đánh kẻ bề-tôi phản nghịch,

3) Đều hát bài nhạc Phá trận,

4) Để cùng thưởng-thức lạc thú của người dân đời thái-bình.

Dịch thơ

Nhận quân luật từ Vua dũng tiến,

Quan võ văn chinh chiến phản thần,

Hát bài Phá trận vang rân,

Để cùng thưởng-thức đời dân thái-bình.

Tôi ngờ rằng bài hát Phá trận tức là bài Thất đức ca (bài hát bảy đức) mà Bạch-Lạc-thiên (Bạch-Cư-Dị) đã nói đến.

Theo sách Đường-thư, nước Tề làm bài hát Bạn lữ khúc, nước Trần làm bài Ngọc thụ hậu đình hoa. Nay thấy chép ở sách Lý Thái-Bạch thi chú có câu:

璧月夜夜滿

瓊樹朝朝新

Bích nguyệt dạ dạ mãn

Quỳnh thụ triêu triêu tân

Dịch nghĩa

Trăng tròn đêm đêm đầy,

Cây ngọc sáng sáng mới.

Dịch thơ

Trăng tròn đêm đêm càng đầy-đặn.

Cây ngọc thì sáng sáng mới tươi.

Lại thấy trong sách Văn-hiến có câu:

玉樹後庭花

花開不復久

Ngọc thụ hậu đình[944] hoa

Hoa khai bất phục cửu

Dịch nghĩa

Cây ngọc trổ hoa ở hậu cung,

Hoa nở lại không được lâu

Dịch thơ

Hậu đình cây ngọc trổ bông,

Hoa xinh chen nở mà không lâu dài.

Chỉ có hai bài này còn có thể khảo-cứu được, còn những bài khác thì đều thiếu cả.

Bản chép ở các nhà có bài như sau:

庭前御柳催綠

檻外宮花吐紅

鴛瓦數行月露

龍旗萬隊春風

侍臣舞蹈齊拜

聖壽南山與同

Đình tiền ngự liễu thôi lục.

Hạm ngoại cung hoa thổ hồng.

Uyên ngõa[945] sổ hàng nguyệt lộ.

Long kỳ vạn đội xuân phong.

Thị thần vũ đạo tề bái,

Thánh thọ [20b] Nam sơn dữ đồng.

Dịch nghĩa

1) Trước sân cây liễu của vua đua sắc xanh.

2) Ngoài lan-can hoa ở cung đình trổ màu hồng.

3) Ngói uyên-ương mấy hàng ở trong sương có ánh trăng.

4) Cờ thêu rồng muôn đội trong gió xuân.

5) Bầy tôi hầu-hạ nhảy múa cùng kính bái,

6) Chúc tuổi thọ của vua chồng chất lên cao như ngọn núi Nam.

Dịch thơ

Trước sân ngự liễu xanh tươi.

Lan-can hoa trổ khắp nơi ửng hường.

Ngói uyên mấy dãy trăng sương,

Gió xuân, muôn đội đã trương cờ rồng.

Thị thần nhảy múa lạy chung,

Chúc mừng Thánh thọ sánh cùng Nam-sơn.

Bài thơ nầy là của Phùng-Diên-Kỷ[946] làm, thấy chép ở sách Nghệ văn loại tụ, chớ không phải chính văn của khúc hát nầy.

Theo sách Đường-thư, khi vua Cao-tổ khắc-phục được kinh thành có ban-hành mười hai điều ước-pháp (pháp-luật ràng buộc nhân-dân phải noi theo): Giết người, trộm cướp, phản quân-đội, phản nghịch đều phải giết chết, và trừ bỏ những cấm lệnh hà-khắc tàn-bạo.

Nay các sách đều không thấy chép mười hai điều ước-pháp ấy ra thế nào.

Mục Lễ lãm thư trong sách Sách phủ nguyên quy chép như sau:

Lúc mới làm Tần vương, Đường Thái-tông trưng cầu những kẻ bề-tôi ở nơi đồng nội cỏ cây[947], đặt nhà trạm để cầu khẩn triệu vời. Cho nên nhiều người hiền tài đều từ phương xa tựu đến.

Lúc ấy trong nước mới được dẹp yên, nhà vua mới dũng chí kinh luân (sửa-sang sắp đặt việc chính-trị), để tinh-thần vào văn-nghệ, nhân đó mới mở học quán để tiếp đãi kẻ-sĩ trong bốn phương.

Nhà vua lại xuống sắc-chỉ nói như sau:

“Ngày xưa nước Sở tôn trọng bậc hiền tài, vui theo đạo-đức, trước hết cử họ Thân họ Mục; nước Lương tiếp đãi kẻ-sĩ, quý chuộng đạo-đức, trọng dụng họ Trâu họ Mai, [21a] đều bắt chước theo khuôn mẫu về việc trau giồi của người trước và để tiếng thơm cho công nghiệp đời sau.

“Tự xét mình đức bạc, đa tạ bậc hiền sĩ[948], núi cao thì để người ta ngẩng trông[949] lại không thể ngưỡng mộ được hay sao?

“Cho nên hương lan vừa đượm thì nghĩ nhớ sâu xa đến bậc quan chức[950] tới chơi; đan quế[951] mới rườm-rà thì mong mời rước được kẻ-sĩ hào tuấn.

“Thế rồi, mạ trong vườn càng ít mà không lưu lại được con ngựa tơ trắng[952] của bậc hiền tài; cây cao vừa mới bay lên thì thẹn tiếng chim kêu oanh oanh tìm bạn[953].

“Sở dĩ mong được bậc hiền tài trau giồi bồi bổ những điều khiếm-khuyết của mình, cho nên ngồi nghiêng[954] không chán ở sân Tề để đợi hiền, mở tiệc ở quán Yên để đãi khách.”

Rồi vua Thái-tông cử những hiền-sĩ vào những chức sau đây:

- Đỗ-Như-Hối giữ chức Đại-hành đài-ty Huân Lang trung.

- Phòng-Huyền-Linh, Vu-Chí-Ninh giữ chức Ký-thất khảo công Lang trung.

- Tô-Thế-Trường làm chức Quân tư Tế tửu.

- Tiết-Du giữ chức Thiên-sách phủ ký thất.

- Diêu-Tư-Liêm, Chử-Lượng giữ văn học.

- Lục-Đức-Minh, Khổng-Dĩnh-Đạt giữ chức Đại-học Bác-sĩ.

- Lý-Đạo-Huyền giữ chức Chủ-bộ.

- [21b] Lý-Thủ-Tố giữ chức Thiên-sách Thương tào.

- Ngu-Thế-Nam giữ chức Vương-phủ ký thất Tham-quân.

- Thái-Doãn-Cung, Tiết-Nguyên-Kính, Nhan-Tướng-Thì giữ chức Tham-quân.

- Hứa-Kính-Tông giữ chức Tống-châu Tổng quản Hộ tào.

- Cái-Văn-Đạt giữ chức Thái-học trợ giáo.

- Tô-Húc giữ chức Tư-nghị điển tiêm.

Có người lìa sông Hoài hàng ngàn dặm mà đến, có người đến nước Triệu vui mừng yết-kiến ba lần, có người rủ quần nơi phủ đệ, nhận chức làm tôi ở nước phiên, dẫn lễ độ mà thành phép tắc, làm văn mà vịnh thơ Phong (thơ Quốc-phong), thơ Nhã (thơ Tiểu-nhã và Đại-nhã), nhàn hạ tự đắc (ưu du) nơi mạc-phủ[955].

Đó là việc dùng người đáng khen cả.

Phải cho vị bổn quan kiêm chức văn học sĩ.