Vân Đài Loại Ngữ - Quyển 7 - Chương 10

Tô-Đông-Pha nói: “Văn của Giới-phủ[984] chưa ắt là không hay, nhưng lỗi ở việc ưa khiến người ta đồng với [29b] mình.

Đất mà tốt thì cùng sinh ra mọi vật mà không cùng sinh ra một thứ.

Chỉ có đất hoang, đất xấu, đất mặn thì mới thấy mọc đầy một thứ tranh vàng lau trắng

Đó là cái đồng của họ Vương (Vương-An-Thạch)” .

Chu-Tử nói:“Vương-An-Thạch nói thế chưa đúng. Nếu cái học của ông là đúng khiến người người đồng như mình để cùng vào chỗ đúng thì sao lại không được?

Nếu khiến trông ra thấy đều là một thứ lúa nếp lúa kê mà không có cỏ dại chen mọc vào thì sao lại không thể được?

Chỉ vì cái học của Kinh-công (Vương An Thạch được phong Kinh-quốc-công) tự nó đã có chỗ chưa đúng vậy.

Từ nhà Đường trở về sau, các quan ở kinh-đô sai người và lại viên dò xem triều đường có làm việc gì, có sai khiến ai, có trao chức quan cho ai thì biên vào giấy báo cho biết, gọi đó là triều báo.

Lại-viên và người của các quan ở ngoài quận lưu lại ở kinh để[985] hễ có nghe được điều gì thì ghi chép vào miếng giấy để báo cho biết, gọi đó là để báo.

Hai loại báo-cáo này đều tùy theo sự việc mà sao chép.

Kinh-quốc-công Vương-An-Thạch chê sách Xuân-thu là loại triều [30a] báo vụn-vặt, ý nói sách Xuân-thu ghi chép vụn-vặt việc các nước mà lời văn thì nhiều chỗ sót thiếu.

Trong bộ Thuyết-phu bài Nam Tống thị lệ ký gọi là tiểu kỷ thì có Ban triều lục, Cung triều báo Duyệt quan đồ.

Trong sách Chu-tử toàn thư, Chu-Hy nói có đọc một đoạn di bút của hai ông họ Trần luận về các sai lầm của học-thuật họ Vương (Vương-An-Thạch) rất là khúc chiết.

Giả sử Kinh-quốc-công (Vương-An-Thạch) có sống lại cũng phải chịu thua mà khuất-phục không có lời nào chối cãi được.

Sách Tính-lý đại toàn[986] đã ghi chép thiếu châm chước.

Chu-tử bảo học trò rằng: “Sách vở ghi chép, dẫu có giải thuyết rõ-ràng sao bằng tận mặt nghị-luận với nhau, một lời nửa câu cũng có chỗ làm cho mình thông hiểu. Cho nên người ta có câu: “Dữ quân nhất dạ ngữ, thắng độc thập niên thư ” 與君一夜語勝讀十年書. Nghĩa là: Cùng anh nói chuyện một đêm còn hơn đọc sách trong mười năm.

Một đêm nói chuyện cùng anh,

Còn hơn đọc sách một mình mười năm.

[30b] Chu-Biện[987] vâng mệnh đi sứ nước Kim có làm bài văn-tế vua Tống Huy-tông, nay thấy chép ở sách Chu văn công tập như sau:

猥以凡庸

誤蒙選擇

茂林豊草被雨露於當年

絕黨殊隣冒風霜於將老

節上之旄盡落

口中之舌徒存

嘆馬角之未生魂消雪窑

攀龍髯而莫逮淚灑冰天

Ổi[988] dĩ phàm dung.

Ngộ mông tuyền trạch.

Mậu lâm phong thảo, bị vũ lộ ư đương niên.

Tuyệt đảng thù lân, mạo phong sương ư tương lão.

Tiết thượng chi mao[989] tận lạc.

Khẩu trung chi thiệt đồ tồn.

Thán mã giác chi vị sinh, hồn tiêu tuyết giáo.

Phan long nhiêm nhi mạc đãi, lệ sái băng thiên.

Dịch nghĩa

1) Lạm dùng kẻ tầm thường.

2) Lầm lẫn đội ơn vua tuyển chọn.

3) Nơi rừng rậm-rạp cỏ um-tùm, chịu mưa và móc đương năm ấy.

4) Xa thân-thích cách láng-giềng, mạo gió sương lúc sắp già nua.

5) Trên cây tiết-mao, lông đà rụng hết[990].

6) Ở trong miệng, lưỡi hãy vẫn còn[991].

7) Than thở sừng ngựa chưa mọc[992], hôn tiêu nơi hang tuyết.

8) Vin râu rồng[993] mà không kịp, lệ rảy giữa trời băng.

Sách Chu văn công tập lại sơ lược chép bài chế của vua Cao-tông sai Chu-Biện vâng mệnh đi sứ như sau:

朕方倚同晉國用魏絳以和戎

卿其遠體候生御太公而歸漢

Trẫm phương ỷ đồng Tấn quốc, dụng Ngụy-Giáng dĩ hòa Nhung.

Khanh kỳ viễn thể Hầu sinh, ngự Thái công nhi quy Hán.

Dịch nghĩa

1) Trẫm vừa dựa theo gương nước Tấn đã dùng ý-kiến của Ngụy-Giáng[994] giảng hòa với rợ Nhung.

2) Khanh nên bắt chước Hầu-Sinh[995] đánh xe đưa Thái-công về bên Hán.

Chu-Biện là chú họ của Chu-tử (Chu-Hy).

Sách Tống sử thông giám chép bức thư viết tay của Nguyên-hựu Hoàng-hậu[996] khiến Khang-vương lên nối ngôi. Đó là [31a] lời văn sâu rộng.

Toàn bức thư ấy thấy chép ở sách Tứ tục văn tông như sau:

比以敵國興師

都城失守

侵纒宮闕旣二帝之蒙塵

誣及宗祊謂三靈之啟卜

衆恐中原之無統

姑令舊弼以臨朝

雖義形於色而已死爲辭

然事迫於危而非權莫濟

乃以衰癃之質

起於閑廢之中

迎置宮闈

進加位號

舉欽聖已還之典

成靖康欲復之心

永言曆數之屯

坐視邦家之覆

撫躬獨感

流世何從

緬惟蓺祖之開基

寔自高穹之眷命

歷年二百民不知兵

傳祚九君世無失德

雖舉族有北轅之釁

而敷天同左袒之心

乃眷賢王

越居舊服

俾應神氣之歸

已狥羣情之請

由康邸之舊蕃

嗣宋朝之大統

漢家之危十世宜光武之中興

獻宗之子九人惟重耳之尚在

玆乃天意

夫豈人謀

尚期中外之叶心

同定安危之至計

庶臻小愒

用底丕平

爰播告於多方

期深明於予意

Ti dĩ địch quốc hưng sư

Đô thành thất thủ.

Xâm triều cung khuyết, ký nhị đế chi mông trần[997].

Vu cập tông banh[998], vị tam linh[999] chi khải bốc.

Chúng khủng Trung-nguyên chi vô thống

Cố linh cựu bật dĩ lâm triều.

Tuy nghĩa hình ư sách, nhi dĩ tử vi từ[1000].

Nhiên sự bách ư nguy, nhi phi quyền mạc tế.

Nãi dĩ suy lung chi chất

Khởi ư nhàn phế chi trung

Nghinh trí cung vi

Tiến gia vị hiệu

Cử Khâm Thánh dĩ hoàn chi điền.

Thành Tĩnh Khang dục phục chi tâm.

Vĩnh ngôn lịch số chi truân,

Tọa thị bang gia chi phúc.

Phủ cung độc cảm,

Lưu thế hà tùng?

Diễn duy[1001] Nghệ tổ chi khai cơ,

Thực tự cao khung chi quyến mệnh[1002]

Lịch niên nhị bách, dân bất tri binh,

Truyền tộ cửu quân, thế vô thất đức.

[31b] Tuy cử tộc hữu Bắc viên chi hấn,

Nhi phu thiên đồng tả đản[1003] chi tâm.

Nãi quyến hiền vương

Việt cư cựu phục

Dĩ tuận quần tình chi thỉnh

Tý ưng thần khí[1004] chi quy

Do Khang-đế chi cựu phiên

Tự Tống triều chi đại thống.

Hán gia chi nguy thập thế nghi Quang-Vũ chi trung hưng.

Hiền-tông chi tử cửu nhân, duy Trùng Nhĩ chi thượng tại.

Tư nãi thiên ý

Phù khỉ nhân mưu?

Thượng kỳ trung ngoại chi hiệp tâm.

Đồng đinh an nguy chi chí kế.

Thứ trăn tiều khế,

Dụng để phi bình

Viên bá cáo ư đa phương

Kỳ thâm minh ư dư ý.

(Bài này viết theo thể biền-ngẫu, từng cặp đối nhau).

Dịch nghĩa

1) Gần đây: vì nước địch khởi binh,

2) Đô-thành phải thất-thủ.

3) Quân địch xâm phạm bủa vây cung khuyết khiến hai vua phải bỏ chạy ra ngoài.

4) Và hại đến tông-miếu, bảo rằng tam linh (Trời, Đất và Người) đã bói sang vận mới.

5) Dân chúng sợ cõi Trung-nguyên (nước Tàu) thiếu người thống-trị.

6) Chỉ cho quan chức cũ lâm triều.

7) Tuy nghĩa đã lộ ra ở sắc diện, mà đã lấy cái chết để khước từ.

8) Nhưng việc bức bách nguy-hiểm, nếu không quyền biến thì không thể cứu vãn được.

9) Mới nghĩ đến ta với tư-chất yếu đuối bịnh hoạn,

10) Đưa ta ra từ nơi nhàn phế,

11) Đón về chốn cung vi.

12) Thăng cho ngôi vị và tước hiệu.

13) Cử-hành điền lễ lúc bà Khâm-thánh Hiến-túc Hoàng-hậu đã trở về.

14) Mà làm thành cái lòng muốn khôi-phục của vua Tĩnh-khang (niên-hiệu của vua Tông Khâm-tông, 1126).

15) Mãi nói rằng lịch số truân chiên,

16) Mà đành ngồi xem nước nhà nghiêng đổ.

17) An-ủi mình mà riêng cảm

18) Tuôn nước mắt vì đâu?

19) Suy-nghĩ xa-xôi đến Nghệ-tổ đã mở nền,

20) Thật tự trời cao đoái thương mà sai khiên:

21) (Nhà Tống) trải qua hai trăm năm, dân-chúng không biết việc binh đao.

22) Truyền phúc được chín đời vua, ở thế không có làm điều thất đức.

23) Tuy toàn tộc có mối hiềm khích khi đi lên phương bắc.

24) Nhưng khắp trời đồng một lòng bênh-vực.

25) Ta mới quyến luyến Hiền-vương

26) Hiện ở xa nơi đất cũ,

27) Đã theo lời cầu thỉnh của dân-chúng.

280 Để đáp-ứng với việc quy hoàn ngôi báu.

29)Từ phiên-trấn cũ ở Khang-đế

30) Lên ngôi đại thống của Tống triều.

31) Nhà Hán đời thứ mười nguy khốn phải có cuộc trung hưng của vua Quang-Vũ[1005]

32) Vua Hiển-tông có chín người con trai, nhưng chỉ có Trùng-Nhĩ[1006] là sống còn.

33) Ấy là ý trời,

34) Há là mưu của người?

35) Mong mỏi trong ngoài đồng lòng

36) Cùng định kế lớn an nguy.

37) Ngõ hầu đi đến việc tạm yên

38) Mà tiến tới thái-bình.

39) Vậy bá cáo ở khắp nơi

40) Mong dân chúng rõ thấu sâu xa ý của ta.

Xét theo đấy nước địch là nước Kim, mà toàn thiên không dám nói rõ đến nước Kim, sợ giặc thật quá lắm!