Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 09 - Phần 1

Chương 9

Phước Long - Đồng Xoài.

Phước Long - Đồng Xoài - trận đánh chuyển tiếp giữa hai chiến lược chiến tranh: “chiến tranh đặc biệt” chưa tàn lụi mất đi nhưng đã bắt đầu xuất hiện các yếu tố của “chiến tranh cục bộ”.

Trong trận đánh này, anh Lê Trọng Tấn tư lệnh trưởng, anh Trần Độ chính ủy và tôi được giao nhiệm vụ tư lệnh phó Bộ chỉ huy chiến dịch.

Thực là một sự ngẫu nhiên đầy hứng khởi! Bộ tư lệnh Sư đoàn 312 lại đủ mặt trong chiến dịch này.

Anh Tấn vỗ vai tôi tâm sự:

- Anh em mình sống với nhau từ mặt trận Sơn La. Đã có lúc mình hiểu không đúng về cậu. Bây giờ vào đây không hẹn mà gặp đủ cả - Tấn - Độ - Cầm, và còn khỏe cả. Phải cùng nhau cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.

Tôi xúc động thật nhiều về những điều anh tâm sự, tuy ngắn mà ấm lòng trước khi ra trận.

Thời gian lúc này thật khẩn trương, tôi cười và thật lòng đáp:

- Nhưng không ai hiểu Hoàng Cầm bằng anh, nhất là từ sau thất thủ ở mặt trận Mộc Châu trở về tây nam Phú Thọ.

- Cảm ơn Hoàng Cầm. - Anh Tấn nói và cầm tay tôi lắc mạnh, để rồi mỗi người vào việc được giao.

Trước khi vào chuyện xin được lưu ý bạn đọc đôi điều.

Về sự kiện Phước Long, Đồng Xoài có một vài cuốn sách, bài báo, phản ánh nhưng lại theo biên niên như hai trận đánh tách biệt nhau. Cũng có tài liệu phản ánh trận Đồng Xoài như một chiến dịch riêng biệt, không liên quan gì với chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài. Đúng là về thời gian trận Phước Long đã được khởi sự trước vào thượng tuần tháng 5 năm 1965, Đồng Xoài mãi thượng tuần tháng 6 mới nổ súng.

Nhưng sự thật thì hai trận đánh này đều gắn bó trong một ý đồ chung. Còn lý do vì sao khoảng cách giữa hai trận đánh dài thế (trên dưới một tháng) sẽ trình bày phần diễn biến cụ thể. Như bạn đọc đã biết, Phước Long dưới triều Nguyễn chỉ là một huyện của dinh Trấn Biên, sau thành huyện Bà Rá thuộc tỉnh Biên Hòa cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Phước Long mang dáng dấp một cao nguyên chuyển tiếp, thấp dần và là chân đứng phía nam của dãy Trường Sơn hùng vĩ chạy từ Bắc vào.

Phước Long là một dải rừng bằng trải rộng xen lẫn với rừng cao su nhân tạo, giữa nổi lên một ngọn núi đột xuất uy nghi, đường bệ mang tên núi Bà Rá cao bảy trăm ba mươi mét, như một điểm tựa vững chắc trấn giữ phía tây nam của Tổ quốc. Dưới chân núi là sông Bé uốn khúc, tạo thành các ghềnh thác hưng dữ mang những cái tên dịu dàng - thác Mơ Thượng, thác Mơ Hạ, cách thị xã bốn ki-lô-mét về phía đông có công suất điện năng từ 50.000 - 100.000 kW. Nhưng dưới chân núi Bà vẫn còn in hằn dấu vết tội ác của bọn thực dân Pháp thống trị, chúng đã đặt ở đây một nhà tù - gọi là “Căng Bà Rá” giam cầm các chiến sĩ Cách mạng, trong đó có các đồng chí Trần Văn Giàu, Tô Ký, Nguyễn Thị Định.

Nhưng Phước Long không chỉ đẹp về cảnh quan mà còn là một vị trí chiến lược quân sự quan trọng của cả hai bên. Nhìn vào bản đồ quân sự đặt trong bối cảnh chung lúc ấy dễ thấy Phước Long địa thế thuận lợi cho việc tạo thế cho chiến trường Đông Nam Bộ nói riêng, cho chiến trường Nam Bộ nói chung.

Chính vì lẽ đó từ năm 1954 Mỹ - Diệm đã đổ tiền của vào để xây dựng Phước Long thành tuyến phòng ngự bảo vệ Sài Gòn từ xa. Thực hiện chia nhỏ để kiểm soát, kìm kẹp, địch tách Phước Long từ một huyện của tỉnh Biên Hòa, lập tỉnh mới gồm bốn huyện: Phước Bình, Đôn Luân (Đồng Xoài), Đức Phong (Bù Đăng), Bố Đức (Bù Đốp). Từ 1957 đến 1962, cùng một lúc địch tiến hành nhiều âm mưu tăng quân, xây dựng căn cứ, sân bay, mở rộng hệ thống đồn bốt, dồn đồng bào các dân tộc tại chỗ vào các ấp chiến lược, đẩy nhân dân từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, giáo dân di cư của vùng Bùi Chu, Phát Diệm lên Phước Long để lập các khu dinh điền, hình thành một hệ thống bao quanh thị xã, thị trấn, trên các trục đường. Mỗi ấp chiến lược khu dinh điền đều được quân sự hóa, có rào kẽm gai bao quanh, có bãi mìn, có lực lượng dân vệ, bảo an ngày đêm tuần phòng canh gác. Địch phát cho mỗi gia đình một cái mõ để khua lên khi có người lạ đến, cả ấp khua theo, gây tâm lý nghi kỵ lẫn nhau.

Phước Long từ một thị trấn hẻo lánh, thưa vắng ở vùng biên ải bỗng trở thành một thị xã chứa đầy ắp các sắc lính, hình thành một hệ thống phòng ngự vững chắc chạy từ núi Bà Rá qua tỉnh lỵ ra sân bay xuống chi khu quân sự Phước Bình, thành một tập đoàn cứ điểm mạnh với 8 trận địa pháo, 200 ấp chiến lược, khu dinh điền bao quanh, quân số chiếm đóng lên tới 3.000 tên.

Đúng là địch tạm thời kìm kẹp và khống chế được nhân dân, cơ sở cách mạng bị xáo trộn, quần chúng trung kiên tạm thời nằm yên, số cán bộ, Đảng viên được phân công ở lại bám trụ nằm vùng giữ vững phong trào tạo thời cơ, tạm thời phải phân tán rút vào rừng sâu sống cầm hơi bằng rau rừng nước lã, để mà tồn tại tính kế khác. Tình hình trở nên cực kỳ khó khăn, Xứ ủy Nam Kỳ (sau này là Trung ương Cục) đã chủ trương mua sở cao su Bù Ca vừa làm nơi sản xuất lấy tiền nuôi cán bộ vừa là nơi hợp pháp để chỉ đạo phong trào.

Tháng 9 năm 1959 theo chỉ thị của Xứ ủy, một tổ công tác do các anh Nguyễn Văn Thuận (Ba Thu), Nguyễn Văn Dinh (Ba Dinh), Phú, Sáu A, do đồng chí Lâm Quốc Đăng chỉ huy, từ chiến khu Đ lên vùng Phước Long soi đường liên lạc với các đoàn cán bộ từ miền Bắc đang trên đường trở vào. Cuộc hành trình đầy gian khổ, phải đóng giả nhiều vai, dò tìm các đồng chí ta còn nằm vùng ở đây, bắt liên lạc với đồng bào trung kiên vẫn một lòng với cách mạng bị địch xáo trộn đẩy vào các ấp chiến lược khu dinh điền. Cứ thế vừa tuyên truyền vận động quần chúng, xây dựng cơ sở trong đồng bào các dân tộc tổ chức trạm liên lạc, vận chuyển, quyên góp, mua lương thực dự trữ; vừa làm đủ nghề kiếm sống, các anh đã tạo được chỗ đứng chân ở vùng Đắc Nhân, được đặt tên là căn cứ “nửa lon”, vì những ngày ở đây hàng ngày mỗi người ăn chưa đầy nửa lon gạo. Tổ soi đường đi tiếp theo hướng bắc thì gặp đoàn cán bộ miền Bắc khởi hành từ 20/4/1959. Phải mất hơn sáu tháng các anh mới đặt chân lên phía tây Quảng Nam. Đoàn có hai mươi chín người, phần lớn là cán bộ quân đội, cấp bậc cao nhất là thượng úy. Trong số này có anh Bảy Kính, quê miền Bắc đi phu cao su rồi tham gia chiến đấu ở miền Nam, tập kết ra Bắc nay trở lại.

Tôi gặp anh trong chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài năm ấy, đã gần như người địa phương thực thụ. Anh người xương xương nhưng chắc khỏe, trụ lại đây đến miền Nam hoàn toàn giải phóng. Sau đại hội IV, anh tham gia tỉnh ủy Sông Bé kiêm bí thư huyện Phước Long. Được biết anh đã nghỉ hưu, về sống với gia đình ở chân núi Bà Rá. Ở hoàn cảnh anh, việc đưa gia đình về thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu không khó, nhưng anh tự nguyện định cư tại Phước Long, nhưng không ở thị xã cũ mà về chân núi Bà Rá là có cái lý cái tình của riêng anh. Vì anh gắn với mảnh đất đầy đau thương này từ những năm chưa có đồng khởi rất đen tối còn chịu được, nay đã khác xưa, đi làm sao được xa làm sao được, mảnh đất sâu nghĩa nặng tình này. Cuộc sống của anh thật giản dị, khiêm nhường mà cao cả.

Cuộc hành trình soi đường của tổ công tác đã thành công, Phước Long đã chuyển mình, trở thành nơi hội tụ các đồng chí miền Bắc vào hợp sức. Phong trào được hồi phục, cơ sở chính trị được phát triển. Tháng 1 năm 1960 lực lượng vũ trang của Phước Long thành lập mang tên B270, thiết thực hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của nhân dân. Hàng loạt ấp chiến lược, khu dinh điền trên trục đường 10, đường 14 bị phá vỡ. Hai mươi tư đồn bốt lẻ của địch bị san bằng, vùng giải phóng được mở rộng từ Bù Na - Quảng Đức đến Phước Quả - Liếu Đức. Lực lượng du kích được tổ chức, lực lượng dân công được thành lập sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Tiếng mõ khua báo mỗi khi có người lạ mặt đến ấp đã tắt và xa dần. Đã có đủ điều kiện đưa lực lượng chiến đấu vào gần đồn địch, cho phép chúng tôi, những người đi trước chuẩn bị chiến trường, nằm lại núi Bà Rá ban ngày để quan sát toàn cảnh trận địa địch ở thị xã Phước Long; đã có các điều kiện thuận lợi để chúng tôi bò sát vào rào kẽm gai của địch để nghiên cứu tính toán đặt bộc phá mở cửa cho bộ đội tiến vào diệt địch. Đã có biết bao gương hy sinh thầm lặng của đồng bào đồng chí, của những người đi trước soi đường tạo thế cho trận đánh hôm nay.

Phước Long đã trở thành căn cứ của ta. Từ đây có thể đón người và hàng từ miền Bắc vào, từ đây có thể ra Tây Nguyên, sang Khu 6. Cái thế ấy là nguyên nhân làm nên thắng lợi của chiến dịch mà tôi sẽ kể cùng bạn đọc dưới đây.

Nhân hòa tạo nên thế lợi như vậy là tạm ổn. Nhưng cái khó chính lúc này khiến tôi băn khoăn thực sự là lấy đâu ra lương thực đủ cung cấp cho hơn một sư đoàn ăn trong quá trình chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu.

Hình như đoán biết được điều băn khoăn này, nên khi gặp tôi đồng chí bí thư huyện ủy Bù Đốp nói ngay:

- Các anh khỏi lo, lương thực cho bộ đội ăn tụi này đã chuẩn bị rồi.

- Bao nhiêu? - Tôi hỏi lại.

Vừa tự hào vừa ra vẻ quan trọng, đồng chí bí thư huyện ủy dẫn tôi đến một vạt rừng rậm nhiều cây to rồi chỉ lên, nói:

- Anh thấy không, lương thực treo trên các cây cao. - Ngoảnh lại tôi anh hỏi tiếp. - Thấy không?

Tôi ngước mắt nhìn lên, từng bó lúa nương được chải tuốt sạch sẽ chỉ còn hạt thóc treo lơ lửng trên các cành cây, đề phòng biệt kích địch phát hiện và thú rừng phá hoại.

- Bao nhiêu ký? - Tôi hỏi.

- Năm tạ! - Đồng chí bí thư trả lời, kèm theo tiếng cười sảng khoái.

Tôi thực sự xúc động: Năm tạ thóc xay xát còn ba tạ rưỡi là cùng. Đủ nuôi hàng nghìn con người được mấy ngày. Đúng là như muối bỏ bể, nhưng ở cái vùng đang còn đầy rẫy khó khăn, nhiều gia đình mà tôi bắt gặp đang ăn cháo, ăn củ rừng, lá bép thay gạo, vậy mà khi nói góp gạo nuôi bộ đội ăn no đánh giặc là ai nấy đều sẵn sàng.

Lại một chuyện cảm động khác mà tôi được nghe kể trên đường đi chuẩn bị chiến trường: Trên giao nhiệm vụ cho nhân dân Sóc Bom Bo trong hai ngày phải có đủ một tấn gạo trong điều kiện có nhiều khó khăn, địch uy hiếp, phi pháo của chúng bắn phá không kể giờ. Nhưng nhân dân vẫn bình thản, lạc quan, ai có sức khỏe đều xung phong nhận nhiệm vụ, tiếng chày giã gạo các cùm cum suốt đêm. Chỉ năm ngày sau số gạo cần có đã được đồng bào gùi tới địa điểm tập trung. Nhạc sĩ Xuân Hồng cảm hứng về hình ảnh đẹp này dã sáng tác “Tiếng chày trên Sóc Bom Bo” - một ca khúc trữ tình sâu đậm ngợi ca tinh thần yêu nước của người dân Bom Bo thuần phác, nói ít mà nghĩ sâu, nhìn lẽ phải bằng việc làm thực tế, cái tư chất quý hiếm ấy đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng.

Đến đây xin đi vào nội dung của sự kiện.

Một câu hỏi được đặt ra sau hội nghị tổng kết chiến dịch Bình Giã: Hướng hoạt động quân sự trong thời gian tiếp theo là đâu?

Lại một dịp trao đổi sôi nổi. Có ý kiến đề nghị Long Khánh (Xuân Lộc); ý kiến khác: thọc lên Mê Pu, Tánh Linh, mở rộng địa bàn, tạo thêm chỗ đứng.

Như thế là vẫn duy trì đánh cấp trung đoàn trở xuống, chắc chắn sẽ diệt được địch, nhưng không lớn, nhất là không phục vụ cho củng cố thế đứng để phát triển lực lượng.

Tất nhiên là không nhất trí với ý kiến này nhưng tôi không biểu thị thái độ rõ ràng dù sao thì mình mới vào mà đề xuất chuyển hướng hoạt động để có điều kiện đánh lớn thì không có cơ sở. Vì các yếu tố địch tình, địa hình, dân tình chưa có tích lũy gì, tất cả đều mới mẻ đang trong thời gian tìm hiểu.

Hôm sau, cả Bộ tư lệnh chiến dịch chúng tôi lại được lệnh đến họp để nghe anh Thanh phổ biến quyết định của Bộ chỉ huy Miền mở chiến dịch mới: Phước Long.

Anh nói:

- Về mọi mặt chiến dịch này cao hơn Bình Giã, bước đầu chúng ta thí nghiệm đánh tập trung. Ấp Bắc, Đường Long, Bình Giã tuy thắng lớn nhưng chưa phải đánh lớn trên cấp trung đoàn. Cuộc ra quân lần này trước hết phải tiêu diệt cho được một bộ phận sinh lực quan trọng của chủ lực ngụy, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, củng cố và mở rộng căn cứ.

Đến đây anh chỉ tay vào bản đồ, vùng Phước Long đã được nét chì đỏ tô đậm thành hình bầu dục, nhấn mạnh:

- Đánh địch để tạo điều kiện xây dựng nơi đây thành căn cứ trong cái thế đứng liên hoàn của mặt trận Đông Nam Bộ là một yêu cầu vừa bức bách vừa cơ bản.

Bỗng giọng anh thấp dần và chậm lại, như tiếp sức lòng tin cho chúng tôi. Anh nói:

- Lấy Phước Long làm hướng tiến công chủ yếu trong đợt hoạt động xuân hè còn nhằm thực hiện ý định nghi binh lừa địch, tạo thế bất ngờ, bảo đảm chắc thắng. Sau Bình Giã, địch đoán và đề phòng ta đánh Long Khánh, vì Bà Rịa, Long Khánh cùng một địa bàn. Để củng cố thêm phán đoán sai lầm của địch, ta để lại một bộ phận ở đó phối hợp với bộ đội địa phương và lực lượng vũ trang khu G hoạt động trên lộ 2 (Bà Rịa - Long Khánh), đồng thời Bộ tư lệnh Miền đã điện cho các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận, Biên Hòa có kế hoạch đẩy mạnh hoạt động quân sự trước và trong khi Phước Long nổ súng.

Cuối cùng anh như trao đổi tâm tình, để có thêm thực tế thuyết phục một nhận thức gần như cố hữu, tuyệt đối hóa chiến tranh du kích, vì sau Bình Giã, cán bộ đại đội, tiểu đoàn vẫn chưa thật thông lối đánh tập trung, quen phân tán, đánh theo kiểu tự do lựa chọn mục tiêu. Nếu sau Ấp Bắc địch thấy khó thắng ta, thì sau Phước Long phải chứng tỏ ta có khả năng đánh lớn, tiêu diệt ngày càng nhiều sinh lực địch, diệt quận lỵ, chi khu, diệt tiểu đoàn, chiến đoàn địch; đánh phục kích, tập kích và đánh cả địch phòng thủ trong công sự vững chắc, giáng một đòn cơ bản vào chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của địch.

Anh động viên chúng tôi:

- Đây là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ, đòi hỏi chúng ta không những có quyết tâm cao mà còn có cả biện pháp chiến đấu mưu trí, để giành cho được thắng lợi.

Kết thúc buổi giao nhiệm vụ, anh Thanh lần lượt nắm chặt tay từng người lắc mạnh và chúc thắng lợi.

Tất cả chúng tôi đều đã trải qua nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chín năm, vậy mà hôm nay như có chung sự háo hức, hăm hở của những người lần đầu ra trận, vì đây là một chiến trường thật xa, tất cả đều mới lạ!

Lúc này đã là đầu tháng tư, bầu trời vần vũ mang những đám mây mọng nước báo hiệu mùa mưa sắp đến. Thời gian không còn nhiều. Bộ tư lệnh họp trong tinh thần khẩn trương, sau khi khẳng định quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, rồi phân công từng người hoàn thành công tác chuẩn bị trước khi bàn kế hoạch tác chiến cụ thể. Anh Tấn, anh Trần Độ lo sắp xếp lực lượng, chuẩn bị tư tưởng, tinh thần bộ đội, tôi dẫn đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa.

Đêm trước khi lên đường, tôi miên man suy nghĩ. Đúng là muốn giải quyết được vấn đề đánh tập trung, đánh địch trong công sự vững chắc thì điều kiện tiên quyết là tạo được thế bất ngờ. Điều này cấp trên đã tạo cho ta, chọn Phước Long vừa có tầm nhìn chiến lược trong tạo thế, vừa thông minh trong nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch. Tuy bộ đội phải hành quân tiếp cận chiến đấu xa và vất vả, nhưng lợi là đánh lạc hướng địch theo dõi, đề phòng. Ta phải bằng mọi cách giữ cho được lợi thế này, không được sơ suất một hành động nhỏ trước hết là trong chuẩn bị chiến đấu. Yêu cầu đặt ra cho đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa không phải chỉ nhận biết đầy đủ địa hình, hệ thống phòng thủ của địch để có kế hoạch bố trí binh hỏa lực, mà còn phải xác định được hướng đột phá, điểm đặt pháo, ĐKZ, thích hợp để làm nhiệm vụ phối hợp, hỗ trợ bộ binh có hiệu quả ngay từ phút đầu của giờ G - giờ nổ súng tiến công thống nhất.

Tuy chưa hình dung đầy đủ hình thể vùng rừng núi Phước Long nói chung, thị xã Phước Long nói riêng nhưng đầu óc tôi lúc này lại hiện về những trận công đồn ở Đông Khê, Nghĩa Lộ, hữu ngạn sông Đà và ở Điện Biên Phủ năm xưa mà mình đã tham gia, từ đó mà hình dung những khó khăn sẽ gặp, cùng các việc phải làm.

Sáng hôm sau đoàn cán bộ trinh sát thực địa lên đường. Từ căn cứ Mã Đà đoàn cắt rừng qua suối Nhung ngược lên hướng bắc - sát biên giới Campuchia để gặp các anh trong thường vụ tỉnh ủy Phước Long sơ bộ bàn kế hoạch phối hợp với nhân dân nổi dậy và xin các anh cho giao liên dẫn đường và móc nối với cơ sở hoạt động hợp pháp trong vùng địch trao đổi nắm tình hình cụ thể. Vẫn là những cánh rừng bằng đại ngàn đi không mỏi gối chồn chân nhưng tầm nhìn rất khó, ngay cả bầu trời có lúc cũng không thấy vì các cây đan chen thành một lớp lá dày như một trần nhà rộng mênh mông che lấp. Không gian thu hẹp cả bốn chiều, rất khó quan sát, dễ mất hướng và lạc đường.

Từ cực bắc chúng tôi lại xuôi về hướng đông nam. Bốn giờ chiều ngày thứ ba mới đến bờ bắc thác Mơ. Từ xa đã nghe thấy tiếng nước gầm réo như đang đến gần một nhà máy cơ khí cỡ lớn.

Không biết ai đã đặt tên cho con thác này thật đúng với cảnh quan đầy chất thơ. Dòng thác rộng vừa phải nhưng độ dốc cao, từng cột nước đổ xuống quyện với sương mù ban chiều tạo thành biển mây bạc, bờ thác gồ ghề bởi nhiều phiến đá to nhỏ tạo thành êm ả mà gân guốc, ngồi trên những phiến đá thả chân xuống dòng nước tận hưởng cái mát dịu trong lành, tan nhanh những mệt nhọc, âu lo, thần kinh mau được thư giãn trở lại.

Từ thác Mơ chúng tôi nhìn thấy núi Bà Rá, mặc dầu dãy núi đột xuất có “ngoại hình” hùng vĩ cao gần tám trăm mét mà mãi hôm nay - sau ba ngày hành quân mới nhìn thấy nó.

Lại một đặc điểm nữa của riêng Đông Nam Bộ, vì nơi đây, chủ yếu vẫn là hình dáng của rừng bằng, muốn quan sát được địch phải leo lên các cây cao - tức là phải biết leo trèo. Từ thực tiễn sau chuyến đi chúng tôi cho bộ đội tập luyện, từ leo trèo tự nhiên đúc kết ra thành yếu lĩnh động tác, thứ tự phối hợp chân, tay, nâng, bám đẩy người lên cao để phổ biến cho cán bộ chiến sĩ ở ngoài Bắc mới bổ sung vào, coi đây như một “kỹ thuật” chiến đấu cần biết đối với mọi người.

Vượt thác Mơ sang núi Bà Rá, chúng tôi nằm lại một ngày ở lưng chừng phía đông quả núi, ăn gạo rang, uống nước lã cầm hơi, vì đây là đất lạ, trên đỉnh núi có lính địch đóng chốt bảo vệ hệ thống truyền tin, máy phát hiện tiếng động. Dưới chân núi là hệ thống ấp chiến lược, đồn bốt dày đặc, các đội biệt kích, thám báo ngày đêm tuần tra, lùng sục.

Tuy ta có cơ sở trong các ấp chiến lược nhưng lúc này hệ thống kìm kẹp của địch rất chặt. Tình nghi ai là chúng cứ bắt bớ, cầm tù, tra tấn và bắn bỏ. Vì vậy các cơ sở của ta tạm thời rút vào bí mật, hoạt động đơn tuyến, không ai biết ai.

Đúng là thời gian đã ủng hộ chúng tôi. Bầu trời hôm nay trong xanh không có sương mù. Chúng tôi di chuyển địa hình sang triền núi phía bắc cách xa điểm ban đầu khoảng năm trăm mét để làm nhiệm vụ, theo từng nhóm nhỏ đã được phân công. Qua kẽ lá, leo lên cây cao nhìn bằng mắt thường, qua ống nhòm toàn cảnh thị xã Phước Long hiện ra rất rõ, giống như một mô hình cao nguyên được thu nhỏ, chung quanh đều có sườn dốc cao thấp khác nhau, nhất là phía đông bắc có quãng như một vách đứng, bộ mặt thị xã lại bằng phẳng, rộng khoảng hơn một cây số vuông. Có cơ sở địa phương đi cùng, đoàn trinh sát đã nhìn rõ các mục tiêu trọng điểm và đánh dấu chúng trên bản đồ mang theo: sở chỉ huy tiểu khu, dinh tỉnh trưởng, ty cảnh sát, trận địa pháo, bước đầu đã có dự kiến hướng mũi tiến công và mục tiêu cần đánh chiếm.

Đêm nằm ở sườn núi Bà Rá thoạt đầu tưởng sẽ ngủ một giấc thật ngon, nào ngờ lại một đêm thao thức với những lo lắng và liên tưởng như một cuốn phim dài cứ xuất hiện trước mặt; nghĩ xa, nghĩ gần, nghĩ về thời tiết thật lạ, đối nghịch nhau như trên cung trăng. Ngày nắng như bốc lửa, cổ họng lúc nào cũng đòi nước vì khô đắng, đêm xuống - càng về khuya cái lạnh càng ùa nhanh. Sáng dậy người mỏi mệt tức thở vì sương mù dày đặc tạo thành hạt nhỏ, làm mặt đất ẩm ướt khó chịu, chẳng khác gì cảnh núi rừng Tây Bắc.

Ngày hôm sau chúng tôi quyết định rời núi Bà Rá lật cánh sang hướng tây bắc. Đây là cuộc hành quân táo bạo. Nhưng không có con đường nào khác vì nhiệm vụ chưa hoàn thành, vì qua kinh nghiệm bản thân cho thấy khi đi trinh sát thực địa phải đi một đường về một đường, đề phòng bất trắc; và trên thực tế chúng tôi đã bị lộ, địch phát hiện dấu vết chúng tôi khi qua thác Mơ. Lại một bài học nữa về đi không dấu, nấu không khói nói không tiếng cần phải được nghiêm túc thực hiện.

Vượt qua hệ thống ấp chiến lược thuộc khu vực Sơn Giang, đến địa điểm vọt qua đường là quãng nằm kẹp giữa sân bay và chi khu quân sự Phước Bình. Pháo sáng địch bắn cầm canh để vừa hù dọa vừa quan sát dấu vết. Chỉ cần một tiếng động nhỏ là đạn các cỡ đã tính sẵn đổ vào đây. Thần kinh chúng tôi căng nhão vì phải chờ ở đây hai tiếng. Cái lạnh đã luồn qua áo quần, lan khắp làn da, may mà không ai vì thế mà ho. Theo dõi kim đồng hồ đến từng giây, khi đó đúng một giờ sáng của ngày hôm sau, từng người nhẹ nhàng, nhanh chóng vượt qua đường, tự động tìm về điểm hẹn.

Xốc lại đội hình, chúng tôi tiếp tục lầm lũi xuyên qua màn đêm theo giao liên dẫn đường ngược lên hướng Bù Gia Mập - Bù Đốp, để từ đây quay ngược lại tiếp tục xác định địa điểm tập kết lực lượng, hướng đột phá - mở cửa cho các đơn vị tiến công thị xã Phước Long từ hướng bắc, tây bắc, đánh Phước Bình từ hướng tây nam.