Bạch Nhật Quỷ Hồn - Chương 09 - phần 2

Hãn Thanh bảo bọn Quỷ Tốt dắt ngựa đi ra cổng chính của trang, còn chàng vượt tường tìm lại tuấn mã của mình.

Năm người đi vài dặm đã đến khu chợ Tây của thành Trường An. Cửa thành rộng mở dù đã cuối canh một. Khu vực này rất phồn thịnh vì có bến dò vượt sông Vị để đi Lan Châu. Chợ cửa Tây có vẻ sầm uất nhộn nhịp hơn cả chợ Đông.

Trước tiên Hãn Thanh dắt bốn gã Quỷ Tốt vào tiệm bán y phục may sẵn, bảo chúng tùy ý họn lựa. Kế bên là tòa Tây Mộn Đệ Nhất Điếm sang trọng, và đối diện là Tây Môn Đại Tửu Lâu. Có lẽ hai cơ ngơi này có cùng một chủ nhân!

Mua quần áo xong, Hãn Thanh ghé vào khách điếm đặt ba phòng thượng hạng, đồng thời nhờ tiểu nhị sang tửu lâu gọi dùm một mâm thịnh soạn.

Khi họ tắm gội xong thì cỗ bàn đã sẵn sàng. Hãn Thanh mỉm cười bảo:

- Chắc các ngươi đều đói bụng, cứ tự nhiên đừng khách sáo!

Bốn gã Quỷ Tốt dù rất thèm thuồng nhưng nhìn nhau chứ không dám cầm đũa. Gã lớn tuổi nhất có đôi mày đen đậm ngập ngừng nói:

- Mong đại hiệp cho biết lai lịch, nếu không anh em tiểu nhân chẳng bụng dạ nào mà ăn uống cả!

Hãn Thanh vuốt mặt, để lộ chân diện mục và nói:

- Ta là Mộ Dung Hãn Thanh, trượng phu của Tề Đạm Vân đây!

Bốn gã vội rời ghế, sụp xuống thi đại lễ:

- Chúng đệ tử tham kiến Thiếu Tổng Giám!

Chàng bảo chúng an tọa và báo danh. Gã mày rậm kính cẩn nói:

- Đệ tử là Đặng Thám. Gã mắt to là Quách Phủ. Gã tai vễnh là Lộ Vi Nhân. Còn gã hay cười kia là Mễ Bất Thông. Gọi chung là U Linh Tứ Hộ Vệ, phụ trách canh phòng U Linh Cốc!

Hãn Thanh gật đầu:

- Như thế đã rõ! Các ngươi cứ ăn cho no rồi hãy đàm đạo sau!

Thế là bốn gã Quỷ Tốt khua đũa không hề khách khí. Hãn Thanh mới ăn hồi chiều nên không đói, chỉ nhấm nháp chút đỉnh để đưa cay.

Chàng âm thầm quan sát sắc diện U Linh Tứ Hộ Vệ, nhận ra họ đều rất thật thà, mộc mạc. Cuộc sống tu hành trong U Linh Cốc đã khiến họ không bị xã hội làm u ám cái tâm lương thiện! Về võ công xem ra họ khá hơn đám Hồ Tốt đang ở trong Hầu Phủ.

Tứ Vệ Mễ Bất Thông vỗ bụng cười hì hì:

- Chưa bao giờ đệ tử được ăn ngon như thế này cả!

Khu rừng chung quanh U Linh Cốc quả không thiếu thú rừng, nhưng thiếu gia vị và tay nghề nấu nướng thì chẳng thể ngon lành được.

Ba gã kia cũng đã buông đũa, nâng chén rượu phần thơm phức, hít hà mãi mới uống.

Nhất Vệ Đặng Thám nhớ đến nghĩa vụ, liền hắng giọng kể:

- "Bẩm Thiếu Tổng Giám! Sau khi người rời khỏi U Linh Cốc được hai hôm thì Hải Hà Tiên Tử đích thân đến xin bái kiến Tề Tổng Giám và lục vị phán quan. Bà ta mang theo rất nhiều châu báu, vàng bạc để làm lễ vật, nhờ bổn Cốc nối lại dùm bàn tay hữu. Ngay đêm ấy, Tiên Tử còn âm thầm đột nhập ngọa phòng của Tổng Giám để hiến thân. Bọn đệ tử phát hiện ra, liền bám theo, nhưng thấy Tổng Giám không từ chối nên cũng đành im lặng.

Đêm hôm sau, Tiên Tử lại đến phòng riêng của Hồng Đường phán quan Hồ Vượng. Nhị phán quan chính là Thần Y của U Linh Cốc, có tài nối xương, đắp thịt rất thần diệu. Hành vi này đã khiến bọn đệ tử nghi ngờ nên bám sát để theo dõi. Nào ngờ lại được chứng kiến cảnh dâm loạn kinh người. Mị lực của Tiên Tử đã khiến Hồ phán quan mê muội, cất lời thề sẽ phục vụ bà ta suốt đời.

Bọn đệ tử đều chưa vợ vì trong Cốc không đủ nữ nhân, cho nên đã không trấn tĩnh nổi. Tam đệ Lộ Vi Nhân bị kích động, thở mạnh, bị phát hiện. Biết Nhị phán quan là người tàn nhẫn, võ công chỉ thua mình Tổng Giám, tất sẽ không để nhân chứng sống sót. Trong khi ấy, Tổng Giám lại tọa quan ba ngày, không thể gặp được. vì vậy, bọn đệ tử đành cấp tốc ly khai U Linh Cốc để bảo toàn mạng sống.

Không hành lý, không tièn bạc, lần mò mãi mới tình cờ đến được Trịnh gia trang này. Do đói khát nên đành phải giả ma để kiếm miếng ăn." Hãn Thanh phì cười:

- Thế còn việc mò mẫm bọn tỳ nữ thì sao?

Tam Vệ Lộ Vi Nhân đỏ mặt:

- Thiếu Tổng Giám lượng thứ cho! Từ ngày chứng kiến cảnh hành lạc của Hải Hà Tiên Tử với Nhị phán quan, bọn đệ tử luôn bị ám ảnh, không còn giữ gìn được đạo tâm nữa.

Hãn Thanh mỉm cười độ lượng:

- Không sao! Đó là bản năng tự nhiên của con người. Sau này theo ta, sẽ có dịp hưởng lạc thú nhân gian. Đâu đâu cũng có những nơi gọi là kỹ viện để nam nhân giải tỏa tâm sự.

Bốn gã Quỷ Tốt nghe nói được chàng cho tháp tùng, mừng rỡ quỳ cả xuống:

- Bọn đệ tử xin hết dạ hầu hạ Thiếu Tổng Giám!

Chàng đỡ họ lên rồi nói:

- Ta đang trên đường đi Tứ Xuyên đón chuyết thê, xong việc sẽ đến U Linh Cốc minh oan cho các ngươi. Từ nay, cứ gọi ta là công tử, xưng là thuộc hạ.

Hồng Đường Tứ Vệ hân hoan vâng dạ, đua nhau rót rượu ra mắt. Hãn Thanh chợt nhớ ra:

- Này Tứ Vệ! Hôm ấy ta bị Tổng Giám đả thương, hôn mê bất tỉnh.

Nhưng vì sao mãi bảy ngày sau mới rời khỏi U Linh Cốc?

Nhị Vệ Quách Phủ đảo đôi mắt to tròn tinh anh, ngập ngừng đáp:

- Thuộc hạ tình cờ biết được ẩn tình ấy. Số là sau khi công tử ngất đi, có đến năm người trong hội đồng phán quan đòi bắt giam công tử để đổi lấy họa đồ Kim Ngọc Bồng Lai Đảo của Hầu Phủ. Nhị phán quan là người khởi xướng việc này. Họ tranh cãi suốt mấy ngày trời, cuối cùng Tề Tổng Giám phải dùng đến ém Dương Lệnh Kỳ mới trấn áp được năm vị phán quan kia. Cũng nhờ có Đại phán quan và Lục phán quan hỗ trợ, nếu không thì Tổng Giám cũng khó thắng được.

Hãn Thanh cau mày:

- Còn việc Tề Đạm Vân không được đi theo ta là vì lý do gì?

Tứ Vệ Mễ Bất Thông cũng muốn góp công. Gã cười toe toét nói:

- Bẩm công tử! Mười một năm trước, Tề tiểu thư được hứa gả cho con trai của Nam Thiên Quỷ Hồ Tổng Giám ở Tứ Xuyên. Sau Tề Đạm Vân phạm tội, bị lưu đày đến Yến Sơn nên hôn sự không thành. Nay tiểu thư được gã cho công tử thì Tề Tổng Giám phải trả lại sính lễ cho Nam Thien Tổng Giám, rồi mới cho nàng về làm dâu họ Mộ Dung!

Hãn Thanh giật mình:

- Té ra ém Dương Đạo lại có đến hai phái Bắc Nam ư?

Nhất Vệ ứng tiếng:

- Thưa phải! Nam Thiên Tổng Giám tên gọi Tư Không Nhạ, cai quản giáo chúng Tứ Xuyên và các tỉnh phía Nam Trường Giang.

Hãn Thanh bỗng linh cảm rằng Tiểu Thuần có liên quan đến tà phái này, chàng vội hỏi:

- Chư vị có biết trọng địa của họ Ở đâu không?

Chàng thất vọng khi bốn gã Quỷ Tốt đều lắc đầu!

Sáng hôm sau, Hãn Thanh cùng U Linh Tứ Vệ rời thành Trường An, đi chếch xuống hướng Tây Nam để đến Hán Trung, rồi từ đấy sang đất Tứ Xuyên! Cuối tháng sáu, bọn Hãn Thanh vào thành Hán Trung. Trời đã chiều nên họ ghé ngang khách điếm. Tắm gội, ăn uống xong, Hãn Thanh cười bảo:

- Đối diện khách điếm này là Lan Hương kỹ viện, các ngươi hãy sang đấy mà hưởng lạc!

Chàng phát cho mỗi gã nén vàng hai chục lượng, Tứ Vệ khoan khoái đi ngay.

Hãn Thanh là người cương cường nên đã cố tìm cách trấn áp lữa dục trong lòng. Ngay trước hai tuyệt thế mỹ nhân là Ngũ Đài Ma Cơ, Viên Nguyệt Hằng Nga chàng cũng chẳng động tình. Chàng cố chờ đến lúc rước được Trịnh Tiểu Thuần và Tề Đạm Vân về Lạc Dương tổ chức đại hỷ. Hãn Thanh cảm thấy có lỗi với Tiểu Thuần khi vương vấn thêm đến ba giai nhân nữa.

Chàng sai tiểu nhị dọn bàn nhỏ nơi lan can lầu để ngắm cảnh trời sao và cảnh hoa lệ trong thành. Hán Trung nằm ở giữa bờ Bắc sông Hán Thủy, là cửa ngõ vào đất Ba Thục nên cực kỳ sầm uất. Phù sa sông Vị và sông Hán đã bồi đắp cho đồng lúa bạt ngàn chung quanh thành. Hàng hóa, thổ sản của vùng phía Nam Thiểm Tây và Bắc Tứ Xuyên đều tập trung tại đây, để đưa xuống Giang Nam và ra cửa biển.

Do kinh tế phồn vinh nên phố phường tấp nập khách phong lưu, tiếng cười nói đàn hát rộn ràng dưới ánh đèn nến sáng rực.

Hãn Thanh ngồi nhâm nhi chén rượu, hồi tưởng đến quá khứ. Hình bóng mẫu thân hiện về khiến tim chàng như thắt lại! Rồi đến những ngày học nghệ bên bờ Hồ Đại Lai, chàng bỗng nhớ sư phụ vô vàn. Kỷ niệm về Tiểu Thuần cũng hiện lên, nổng thắm như mới hôm qua. Chàng miên man suy nghĩ mãi cho đến tận cuối canh hai.

Chiếc đèn lồng trên cột lan can đã tắt lịm. Hãn Thanh chẳng buồn gọi tiểu nhị, ngồi im trong bóng tối.

Bỗng chàng nhận ra trên nóc dãy nhà đối diện, cách đấy chừng chục căn, có bóng đen lướt nhanh, trên vai là một người áo trắng, tóc lất phất buông dài.

Đồng thời, từ nơi gã chui lên vang dậy tiếng người la hét:

- Bắt dâm tặc!

Hãn Thanh chụp ngay lấy chiếc đĩa đựng lạc rang thủ sẵn. Khi gã áo đen kia lướt ngang qua nóc nhà trước mặt, chàng vận toàn lực ném mạnh chiếc đĩa. Hãn Thanh học nghề ám khí từ nhỏ nên thủ pháp rất chuẩn xác. Chàng sợ tổn thương nạn nhân nên nhắm ngay chân gã hắc y. Chiếc đĩa bay đi như ánh sao băng, cắm vào bắp chân trái đối phương. Gã dâm tặc đau đớn rú lên, buông rơi thiếu nữ, lảo đảo chạy tiếp, lát sau mất hút.

Thiếu nữ kia lăn tròn trên mái ngói, nhưng không rơi xuống đất vì bị tấm bảng gỗ vẽ chiêu bài Lan Hương kỹ viện cản lại. Hãn Thanh đã tính đến việc này khi hạ thủ.

Toán người nhà của nạn nhân đã chạy đến, mừng rỡ hò nhau bắc thang đưa người xuống.

Thế mà cuộc hỗn loạn này cũng không phá vỡ giấc vu sơn của U Linh Tứ Vệ. bốn gã vẫn miệt mài truy hoan, chẳng chịu về.

Hãn Thanh tủm tỉm cười, trở vào phòng đi ngủ trước. Chàng hài lòng khi cứu được người, nhưng không ngờ rằng mình vừa gieo mầm tai họa ở tương lai.

Mãi gần sáng, Hãn Thanh chợt tỉnh giấc vì tiếng lục đục ở hai phòng bên cạnh. Té ra bốn gã Quỷ Tốt đã về!

Hãn Thanh ngủ thêm một lúc, ngồi dậy tọa công đến tận cuối giờ Thìn.

Chàng gọi Tứ Vệ dậy ăn sáng rồi lên đường.

Xem ra bản lãnh bọn kỹ nữ rất lợi hại nên bốn gã Quỷ Tốt uể oải, mệt mỏi như vừa trải qua một trận tử chiến.

Chúng đỏ mặt thẹn thùng, không dám nhìn thẳng vào mắt Hãn Thanh.

Nhưng khi ra khỏi cửa Nam thành, Tứ Vệ đã cười nói, kể lại thành tích đêm qua. Tất nhiên, ai cũng khoe rằng mình thần dũng vô song, liên tiếp phá qua, đạp lũng khiến bọn kỹ nữ phục lăn.

Tam Vệ Lộ Vi Nhân hiu hiu tự đác nói:

- Lần sau tiểu đệ phải gọi một lượt hai cô mới xứng tay!

Nhị Vệ Quách Phủ cười mỉa:

- Lạ thực! Thế mà đêm qua ta nghe phòng ngươi im ắng như tờ, mới giữa canh ba đã nghe tiếng ngáy vang.

Họ Lộ ngượng ngùng:

- Nhị ca lầm rồi! Đấy là ả kỹ nữ kia ngáy chứ đâu phải tiểu đệ!

Tứ Vệ Mễ Bất Thông cười hì hì:

- Hay thực! Tam ca thượng mã cả đêm mà nàng ta vẫn ngủ say được, quả là quái sự! Té ra ả kỹ nữ kia bản lãnh tuyệt luân, vừa hành nghề vừa ngủ để dưỡng sức!

Cả bọn cười phì, còn Lộ Vi Nhân đỏ mặt tía tai, không dám khoác lác nữa.

Năm người đến bến đò sông Hán, lên thuyền sang bờ Nam, cơn mưa hạ khiến trời u ám, ánh dương quang lịm tắt. Gió mưa làm mặt sông dựng sóng, và lòng người thêm buồn vì nhớ đến cố nhân. Năm xưa, Hãn Thanh quen với Tiểu Thuần cũng bởi một cơn mưa mùa hạ thế này. Hãn Thanh nghe lòng buồn vời vợi, khe khẽ ngâm nga:

Mưa rơi lớp lớp sông dài Gió vỗ sóng nước, u hoài lòng ta Biệt ly ngàn dặm chia xa Vó câu khấp khểnh gian hà ngược xuôi Nhớ xưa đường cũ sánh đôi Nay mưa, chiếc bóng ướt môi lạnh lùng Tìm nhau cho vẹn tinh chung Quỷ Môn đâu tá, bóng hồng gặp chăng?

Chàng luôn lo lắng không tìm ra Quỷ Môn Quan chỉ có trong thuyết kia nên tức cảnh sinh tình, làm thơ nói lên tâm sự.

Đò cặp bờ Nam thì cơn mưa cũng tạnh. Bọn Hãn Thanh thúc ngựa phi mau, năm ngày sau chỉ còn cách thành Quảng Nguyên vài mươi dặm. Đây là giao lộ với đường từ Bảo Kê đi Thành Đô, nên khách thương hồ tấp nập, xe ngựa hàng đoàn. Hãn Thanh phải cho tuấn mã đi chậm lại, đồng hành với một toán lữ hành.

Chàng ngạc nhiên khi thấy có một hán tử áo choàng trắng, cỡi lạc đà chứ không phải ngựa. Gã có vóc dáng tương tự như Hãn Thanh, gương mặt rắn rỏi, vuôn vức, tuổi độ bốn mươi. Lủng lẳng bên hông gã là một thanh đoản đao, vỏ nạm châu báu sáng ngời.

Gọi là đoản đao nhưng thực ra nó cũng dài bằng trường kiếm, vì trường đao có kích thước đến một trượng đời Đường (khoảng cm) nặng năm mươi cân. Trường đao hay đại đao cán dài là vũ khí trong quân đội, khách võ lâm ít ai dùng đến.

Đoản đao thường chỉ sắc một bề, sống dày, nên gọi là đơn đao. Nếu lưỡi hơi cong hơn bình thường thì thuộc loại loan đao. Còn có một loại đao hình kiếm bản lớn, thẳng, mũi sắc cả hai cạnh nhưng không thông dụng.

Như vậy, xét theo hình dáng vỏ đao thì gã bạch y cỡi lạc đà kia xử dụng loan đao. U Linh Tứ Vệ chưa hề thấy qua loài vật đặc biệt của sa mạc, nên chỉ trỏ bàn tán xôn xao. Hãn Thanh bèn giải thích:

- Tên của con thú ấy là Lạc Đà, là loài duy nhất có thể đưa người ta vượt sa mạc. Nó có thể nhịn khát nửa tháng mà không chết, và khi gặp nước nó uống một lần bốn năm đấu mới no.

Tam Vệ Lộ Vi Nhân thắc mắc:

- Bẩm công tử! Sao con vật này lại có lông trắng?

Chàng cười đáp:

- Đây là giống Bạch Đà Tây Vực rất quý hiếm. Tuy thấp lùn, bước nhỏ nhưng sức đi ngàn dặm, bền bỉ phi thường.

Hãn Thanh đi sau mấy trượng, lại không nói lớn, thế mà hán tử nghe thấy, quay lại nhìn chàng. Đôi mắt gã sáng rực và lạnh lẽo nhu băng. Tuy nhiên, gã chẳng nói gì, thúc Bạch Đà tăng tốc độ bỏ rơi đoàn người.

Trung Hoa ngày xưa có đến hai phần ba diện tích là núi rừng, nên đi đâu cũng gặp. Hai bên đoạn quan đạo phía trước là cánh rừng thưa, vệ đường lau lách mọc đầy nhờ mùa hạ.

Hán tử Tây Vực kia phi rất nhanh, nên cách xa Hãn Thanh hàng trăm trượng. Nhưng gã vừa đến khúc giữa rừng, liền lọt vào ổ mai phục, trường tiễn bay veo véo, phủ kín toàn thân.

Hán tử áo trắng vừa nghe tiếng dây cung bật đã kịp rút đao múa tít, tạo thành màn lưới thép hộ thân.

Bạch Đà chạy thêm vài trượng, khuỵu xuống vì hai vó sau bị trúng tên.

Hán tử bạch y tung mình rời yên, giận dữ quát vang như sấm:

- Bọn cường đạo khốn kiếp!

Lúc này các cung thủ đã thôi không bắn, nhảy ra vây chặt đối phương.

Đồng thời có tiếng quát ghê rợn:

- Mộ Dung Hãn Thanh! Phen này ngươi phải đền mạng cho con trai ta!

Hãn Thanh đã đến đầu rừng chứng kiến mọi việc. Chàng thở dài hối tiếc cho gã cỡi lạc đà. Chiếc áo choàng trắng thấm nước mưa, rũ xuống che mất cái bứu nhỏ của Bạch Đà, nên bọn Thần Tiên Giáo đã ngộ nhận gã là chàng!

Hán tử Tây Vực gầm lên:

- Lão nói nhăng gì thế? Ta vừa vào đến Trung Nguyên, làm gì có thù oán với ai?

Gã huýt sáo bảo Bạch Đà gượng chạy về phía sau, rồi vung đao tấn công liền. Đối tượng của gã chính là Kim Thạch Tà Tẩu Mộc Tiểu Luân.

Từ ngày bị Hãn Thanh hủy mất một mắt và tay cầm kiếm, võ công Tà Tẩu chỉ còn có hai phần. Mối hận thù chồng chất khiến lão căm hờn Hãn Thanh đến tận xương tủy. Tìm đến Hầu Phủ thì không được, vì doanh trại của Tổng Binh Lạc Dương ở gần đấy. Thế nên lão xung phong đi Tứ Xuyên chạn đường Tiểu Hầu Gia!

Thấy hán tử áo trắng kia cỡi một con vật có đầu của lạc đà, lại phi nhanh như muốn tránh mai phục. Tà Tẩu vội cho đội cung nỏ hạ thủ ngay. Lão quan niệm rằng thà giết lầm còn hơn bỏ sót. Hơn nữa, ở đất Tứ Xuyên này làm gì có ai cỡi lạc đà.

Nay biết mình lầm lẫn, Kim Thạch Tà Tẩu vô cùng bối rối. Nhưng sự việc đã lỡ, lão đành phải xuôi theo, ra lệnh cho bọn thủ hạ chặn đối phương lại.

Nhưng đao pháp của gã hán tử Tây Vực này quả là đáng sợ. Cánh tay trần của gã cuồn cuộn những bắp thịt, đường đao mãnh liệt như chẻ núi. Thanh loan đao trong tay gã lại sắc bén phi thường, lập tức chặt gãy vũ khí của hai tên giáo chúng, tiện phăng thủ cấp. Gã tả xung hữu đột trong vòng vây, liên tiếp đắc thủ, giết một hơi tám gã giáo chúng Thần Tiên Giáo.

Đứng cạnh Tà Tẩu là một lão nhân cao lớn, tóc hoa râm, râu ba chòm đen nhánh. Trán cao, mũi thẳng, miệng rộng. Nhưng sắc diện lại lạnh lùng như tạc bằng băng tuyết. Lão nhân ấy mặc trường bào tím đậm, tay cầm đao. Có vỏ bằng da cá đen nhánh. Sau khi quan sát kỹ đao pháp của hán tử Tây Vực, Tử Y lão nhân thở dài:

- Mộc lão huynh đã gây họa rồi! Gã này có lẽ là Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi, đệ tử của Tây Thiên Lão Tổ Cù Long Đỉnh!

Kim Thạch Tà Tẩu cười nhạt:

- Đã lỡ lên lưng cọp, muốn xuống cũng chẳng được! Chỉ cần giết gã rồi phi tang, ai biết đâu mà báo oán! Mong Lục lão đệ sớm ra tay cho.

Thì ra lão nhân áo tím này là Đông Nhạc Thần Đao Lục Kính Nghiêm.

Họ Lục có giao tình thâm hậu với Tà Tẩu nên đã đi theo để giúp Mộc Tiểu Luân đối phó với Tiểu Hầu Gia. Đông Nhạc Thần Đao tin rằng mình sẽ giết được Hãn Thanh, vì bảo đao của lão có từ tính rất mạnh, phá được mọi loại ám khí bằng thép.

Lục Kính Nghiêm bước ra quát lớn:

- Dừng tay!

Bọn giáo đồ lập tức nhảy lùi và Tây Hạ Ma Đao cũng đình thủ. Gã hất cao vành nón rộng, quắc mắt nhìn họ Lục rồi hậm hực:

- Bọn ngươi là cẩu tặc phương nào mà lại dở trò mai phục, ám toán một cách hạ lưu như vậy?

Đông Nhạc Thần Đao bị mạt sát thậm tệ, liền nổi nóng, không còn nghĩ đến chuyện điều đình nữa. Lão cười nhạt:

- Lâo phu không định lấy cái mạng chó của ngươi, nhưng những lời thóa mạ kia đã tước đoạt sinh cơ của ngươi rồi đấy!

Tây Hạ Ma Đao đâu biết đối phương là ai, gã đau lòng vì con vật thân yêu bị thương nên hung hãn xông vào. Đao quang xanh biếc, lấp loáng dưới ánh dương quang, chụp lấy kẻ địch.

Đông Nhạc Thần Đao vẫn tự hào mình là người dùng đao giỏi nhất thiên hạ. Thanh đao trong vỏ bay ra như ánh chớp, hóa thành ngàn bóng ảnh tím mờ. Hai thanh đao chạm nhau, tiếng thép tốt ngân dài rồi tắt lịm.

Tây Hạ Ma Đao Uông Vô Hồi nhảy lùi, vai trái và ngực phải trúng đòn, máu tuôn ướt áo. Gã nghiến răng điểm huyệt chỉ huyết rồi lại xông vào, lần này công ít thủ nhiều, đao quang liền lạc, kín đáo. Đông Nhạc Thần Đao cũng muốn tìm hiểu đao pháp Tây Vực nên không hạ độc thủ ngay, ung dung giải phá.

Chắc độc giả thắc mắc là vì sao Hãn Thanh không xuất hiện, mà nỡ để họ Uông mang họa vì mình?

Thưa không, chàng đang bận chăm sóc vết thương cho Bạch Đà.

Khi trúng tên vào hai chân sau, Bạch Đà nhờ sức khỏe phi thường nên đã gượng dậy, theo lời chủ nhân mà chạy ngược lại, để tránh xa đấu trường. Nó khập khễnh bước đi, đi đến đầu rừng thì khựng lại vì đường quan đạo đã bị chặn kín bởi xe, ngựa của khách lữ hành.

Bạch Đà sợ hãi dừng bước, kêu lên những tiếng bi thương. Hãn Thanh khẽ huýt sáo theo một âm điệu lạ tai. Bạch Đà như nhận ra người quen, nhìn chàng mừng rỡ, đuôi vẫy nhanh miệng hí nhỏ.

Hãn Thanh xuống ngựa, bước đến ôm cổ nó vuốt ve và thì thầm điều gì đó, rồi tiến hành việc trị thương. Chàng nhổ hai mũi tên ra khỏi đùi con vật, bóp nát hai viên Tịch Cốc Toàn Sinh hoàn, đắp vào vết thương. Đây là loại thuốc quý nên máu cầm ngay và cảm giác đau đớn mất dần. Hãn Thanh xé áo choàng băng chặt lại, dẫn con vật vào bóng mát bên đường. Bạch Đà tỏ lòng biết ơn bằng cách liếm tay chàng.

Hãn Thanh vừa làm vừa quan sát cuộc chiến giữa Uông Vô Hồi, thầm khâm phục đao pháp của gã. Nhưng chàng cũng nhận ra đối thủ của họ Uông là Đông Nhạc Thần Đao nhờ màn đao quang tím nhạt. Chàng biết Uông Vô Hồi không thể thoát chết, nên quyết định hành động ngay.

Hãn Thanh nói nhỏ với U Linh Tứ Vệ:

- Bọn Thần Tiên Giáo mai phục để giết ta, không ngờ lại nhận lầm người.

Các ngươi mau luồn ra phía sau, tập kích bọn giáo đồ, không được để sót một tên!

Bốn gã Quỷ Tốt hăng hái đi ngay. Hãn Thanh nói bâng quơ với đoàn ngươi:

- Trận quyết đấu này quả là ngàn năm có một, tại hạ phải đến gần để xem cho thỏa mãn.

Phàm là người học võ, ai cũng khao khát được chứng kiến những cuộc so tài như thế, do vậy, có mấy chục khách võ lâm hưởng ứng đi ngay. Họ đi theo Hãn Thanh đến sát đấu trường.