Mẫu Thượng Ngàn - Phần 05 - Chương 02 - Part 01

Phần V - Chương2

Chương 2

Bị ảnh hưởng bởi những gam màu rực rỡ vùng nhiệt đới của Gauguin, bị ảnh hưởng bởi những lời mô tả say đắm của anh Philippe, nên Pierre tìm hiểu kỹ về xứ Bắc Kỳ trước khi lên tàu sang thuộc địa. Nói chung đó là những tưởng tượng của một người Pháp chính quốc nghĩ về một đóa hoa thuộc địa chan chứa mơ mộng và lãng mạn. Một tờ báo viết rằng: "Đông Dương là một huyền thoại, với những cánh rừng nguyên thủy bí hiểm, với những đồng lầy trồng lúa mênh mông, với những chiếc thuyền tam bản có buồm cánh dơi, với vịnh Hạ Long đẹp mê hồn. Nó là một vùng đất đặc biệt trong những giấc mơ châu Á của người Pháp. Vùng đất này nước Pháp chiếm được hơi chút muộn mằn, khác với vùng đất đông phương Ả rập, khác với Trung Quốc, khác với Nhật Bản. Vùng đất ấy là một viên ngọc. Nó nằm ở vị trí hàng đầu của đế chế Pháp".
Pierre không có tâm thức của một nhà thuộc địa. Anh bước chân xuống tàu không nghĩ đến những lợi lộc. Tâm thức của anh là tâm thức của một người tìm kiếm. Anh đi tìm cái đẹp của nắng, của gió. Anh đi tìm cái đẹp ở thế giới nguyên thủy hoang sơ. Cho nên, Ở trên tàu một tháng ròng, anh chỉ chúi đầu vào đọc hồi ký của những người đi trước, đọc những tài liệu, đọc báo, đọc văn, đọc tất cả những gì dính líu tới Đông Dương. Đêm xuống, anh lại lạc vào những giấc mơ về những vùng đất anh chưa bao giờ đặt chân tới...

Pierre tưởng tượng tới những cánh rừng già cao vút, bát ngát mà thâm u, bí hiểm. Trên đầu những cây cao, thả xuống những nhành hoa phong lan muôn màu, muôn sắc. Chúng rắc phấn, chúng phun hương, làm cho khí trời ám hương, ám phấn. Khí trời loãng trở nên đặc quánh vật chất, cho ta một cảm giác ngày ngậy, ngất ngây. Pierre tưởng tượng tới một cảm giác lúc nhúc; lúc nhúc đàn voi trong rừng chuối, lúc nhúc đàn nai bên bờ suối và lúc nhúc cả bao loài thú kỳ lạ. Trong giấc mơ của Pierre có cả những con báo đen rình rập trên cây, rồi cả những con họa mi lích rích tiếng hót thâu đêm, in khảm tiếng hót của chúng vào những đêm dài nhiệt đới. Pierre còn tưởng tượng ra cả những thác, những ghềnh, còn anh ta thì ngồi trên con thuyền độc mộc để vượt thác, để bì bõm vun vút bơi trên những dòng sông hung dữ. Pierre hiểu, có những giấc mơ ấy, tức là tiềm thức mách bảo trước với anh rằng, anh sẽ là nhà thám hiểm, và những hiểm nguy đang chờ đợi rình rập anh trên các nẻo đường.Khác hẳn với những bạn đồng ngũ, đồng hành, Pierre tự trách mình: sự khác biệt ấy của anh có thể là một lỗi lầm chăng. Anh tự thú với bản thân: "Tôi là một nhà thám hiểm bất đắc dĩ, cũng là nhà đo đạc, nhà họa sĩ bất đắc dĩ. Sau này, tôi sẽ còn là một thứ nhà "bất đắc dĩ" nào nữa thì chưa biết được. Chỉ biết rằng tôi đâu có phải là người thợ đang xây dựng cái đại công trình bành trướng của nước Pháp. Tôi đâu có niềm tin chinh phục, niềm tin thuộc địa. Tôi chỉ là kẻ xung phong đầu quân do một động cơ hết sức vụ lợi”. Nói cho thật chính xác, Pierre sang Đông Dương còn vì một lý do khác: anh sợ thất nghiệp. Là một họa sĩ không có tiếng tăm gì, lại mới ra trường, đi tìm việc kiếm sống ở nước Pháp, nơi đầy rẫy những họa sĩ vô danh, đâu có phải dễ. Pierre sợ phải sung vào đội quân thất nghiệp lúc nào cũng nhan nhản ở Paris.Khi anh đến phòng đăng ký đầu quân sang Đông Dương, người ta hỏi:

- Tên là gì?
- Pierre Messmer.
- Nghề nghiệp chuyên môn?
- Họa sĩ.
- Còn gì nữa không?
- Họa đồ.
- Có ai là họ hàng thân thuộc Ở đó?
- Có anh trai, Philippe Messmer, hiện bắt đầu mở đồn điền ở xứ Bắc Kỳ.
- Vì lý do gì xin nhập ngũ?
- Vì chưa có việc làm.
- Vậy là tốt. Sang bên đó, anh sẽ có nhiều cơ hội tiến thân. Tuy nhiên cần phải nói trước với anh: Đông Dương là viên ngọc của chúng ta, nhưng trước mắt nhiều khó khăn, gian khổ. Chỉ miễn là anh có niềm tin vào nước Pháp, biết giữ danh dự cho nước Pháp, anh sẽ có một tương lai.

Pierre đi học lớp đo đạc bản đồ, vì anh đã có dự định từ trước. Anh quen một sĩ quan làm công tác bản đồ trong quân đội. Anh ta nói rằng hiện nay bên ấy đang thực hiện chương trình lập bản đồ địa hình toàn cõi Đông Dương. Trước mắt, việc đó giao cho quân đội. Vậy nên người ta biên chế Pierre vào "Đội khảo sát rừng". Chính ra tên của cơ quan đó là "Phòng địa hình quân sự". Nó chính là tiền thân của cơ quan Địa lý Đông Dương. * * *

Thật không ngờ Pierre bị rơi vào một bộ phận lãng mạn nhất, nhưng đồng thời cũng là bộ phận bạc bẽo nhất, gian khổ nhất và cũng bị người đời lãng quên nhiều nhất. Vì Pierre có chút học vấn, lại biết nghề, nên sau khi học quân sự cơ bản sáu tháng, rồi sát hạch tay nghề, họ phong cho anh hàm chuẩn úy. Như vậy là có chiếu cố đối với người làm nghề gian khổ, dễ bị sốt rét rừng. Gọi là chức chuẩn úy cho oai, chứ thực ra anh chỉ làm nhiệm vụ vác mia, đọc số trong máy ngắm, leo trèo hết ngọn đồi này sang ngọn núi khác, rồi ghi chép những số đó vào cuốn sổ. Thỉnh thoảng, Pierre mới phụ trách máy ngắm. Còn người chính phụ trách máy ngắm là thiếu úy Bonard. Thiếu úy sang Đông Dương đã ba năm, đã thành lính cựu. Anh ta có khá nhiều kinh nghiệm để thích ứng với cái xứ sở đầy hấp dẫn đồng thời quỷ quái này. Bonard bảo Pierre:
- Xứ Bắc Kỳ có sáu tháng thiên đường và sáu tháng địa ngục. Sáu tháng thiên đường bắt đầu từ tháng mười cho đến tháng ba năm sau. Sáu tháng địa ngục kẻo đài từ tháng tư đến hết tháng chín. Địa ngục là mùa nóng nực. Một cái nóng khủng khiếp. Nhiệt độ cao và độ ẩm cũng cao. Không gian hầm hập như cái nhà tắm hơi nóng. Suất ngày, mồ hôi vã ra. Người châu âu đến đây hay chết vào mùa này. Bây giờ đang tháng hai. Cậu chuẩn bị tinh thần đi. Tháng tới sẽ vào mùa địa ngục.

Lúc hai người đang nói chuyện là lúc đoàn khảo sát đang làm việc trên đất Hòa Bình. Không biết anh chàng này có phải là ma cũ dọa ma mới không, chứ nghe cái giọng nghiêm nghị của anh ta thì kinh khủng thật. Bonard bảo rằng:

- Có ba điểm cần luôn chú ý. Thứ nhất: Phải giữ cái đầu. Đầu luôn luôn phải đội chiếc mũ thuộc địa. Đó là chiếc mũ trắng rộng vành trứ danh bằng li-e. Có nó, ta mới chống được cảm nắng. Chính mắt tớ đã trông thấy một gã trung úy bị say nắng. Hắn đang ngồi trên lưng ngựa, thế mà đột nhiên gã bỗng gục xuống, ngã từ trên lưng ngựa xuống đất, bọt mép sùi ra, chết đứ đừ tức khắc. Thứ hai: Không bao giờ ăn uống linh tinh. Dù khát đến mấy cũng không uống nước suối. Ở miền nhiệt đới vi trùng thương hàn, dịch tả, và nhất là kiết lỵ có mặt ở khắp mọi nơi. Người da trắng mắc bệnh kiết lỵ rất khó cứu chữa. Thứ ba: Ngủ phải mắc màn. Nếu không sẽ mắc sốt rét. Nếu sốt rét ác tính, coi như gửi xác ở đất này.

Pierre tròn mắt sợ hãi, anh như truất từng lời nói của người lính cựu. Mấy hôm ấy, đoàn khảo sát đang đo đạc vùng ven sông Đà. Đồn điền của Philippe ở gần vùng này, song Pierre chưa tiện dịp tới thăm.

Thực ra, đoàn khảo sát này là một đoàn hỗn hợp. Thành phần gồm: tổ đo đạc có Pierre, Bonard; bác sĩ Roger - nhà nghiên cứu sốt rét; nhà dân tộc học René de Fromentin, chuyên gia về Mường - Việt. Đoàn trưởng là viên trung úy Louis. Ngoài ra, còn phải kể tới năm người bản xứ làm công việc lao động, khuân vác, hai con ngựa thồ và một chiếc xe trâu.

Nhà dân tộc học René trạc bốn mươi, nhỏ thó, cận thị với chiếc kính mắt dày cộp. ông René mới gặp thấy khó hiểu, khó gần. Pierre cứ tưởng đó là một con người kênh kiệu, chán ngắt, hóa ra không phải. Lúc đầu, khi mới quen, ông ta lúng túng. Ông là loại người không biết cách làm quen để hòa nhập ngay với kẻ khác. Nhưng khi đã quen rồi, ông René rất cởi mở. Và khi quen đã lâu, thì sự cởi mở ấy lại đi đến chỗ quá tự nhiên; thậm chí ông bác sĩ còn nhận xét là ngài René nói hơi nhiều. Quả thực, ông René hay nói, nhưng không phải nói để cho người ta sợ như thiếu úy Bonard đã làm. Cách ông René nói là cách để cho những anh lính thuộc địa mới toanh như Pierre được yên tâm. Cuối cùng, Pierre lại thấy yêu quý, thậm chí có thể nói, thấy mê cái con người gầy gò đó.Ngài René de Frometin sang Đông Dương đã được bảy năm. Một thời gian khá dài đối với một người bình thường, nhưng đối với nhà học giả thì vẫn chưa đủ, bởi vì theo ông nói, còn nhiều thứ để ông phải học quá. Trong quãng thời gian ấy, ngoài làm việc, ông còn học nói được thành thạo hai ngôn ngữ Việt và Mường. Thậm chí ông còn đọc được cả chữ Trung Hoa, một thứ chữ mà Pierre thấy bí ẩn và rắc rối, cứ như thứ chữ vẽ bùa. Pierre hỏi René:

- Người ta sang Đông Dương để làm giàu. Còn ông, không kinh doanh sao có thể giàu có.
- Tôi cũng giàu thêm lên nhiều chứ. Tôi tự làm giàu cho kho tàng kiến thức cá nhân. Chúng ta vẫn lớn tiếng nói với thế giới rằng: chúng ta sang xứ Bắc Kỳ này là để khai hóa cho người An Nam còn chìm trong bóng tối. Đấy là ý kiến của các nhà thuộc địa. Còn tôi, tôi không đi khai hóa, tôi sang đây để học làm giàu cho riêng mình. Ý kiến này có vẻ vị kỷ đấy, nhưng với tôi nó thích hợp.
- Ông học được điều gì?
- Học được tính khiêm nhường, lễ độ, học được sự cam chịu.
- Cam chịu mà cũng phải học ư?

Cuộc trò chuyện giữa Pierre và René diễn ra trong một đêm không trăng, chỉ có rất nhiều ngôi sao sáng nhấp nháy trên bầu trời trong veo, cao vút. Họ ngồi ngoài rìa một khu rừng, trên một đồi cỏ, tại xứ Mường ven sông Đà. Muôn vàn con sâu bọ, có thứ cánh cứng có thứ cánh mềm; muôn vàn con ếch nhái: ếch ộp, ễnh ương, cháu chuộc, nhái xanh, nhái bén; rồi muôn vàn con dế. dế trũi, dế cánh, dế mèn; thậm chí cả muôn vàn con giun đất; loài giun cũng có cách phát ra tiếng nói riêng: chúng đào bới cựa quậy, xáo trộn, tạo ra những tiếng xào xạc lá cỏ, bởi vì đất chuyển động thì cỏ chuyển động mà lá rung rinh. Cộng thêm vào những tiếng động đêm đen đó là những tiếng phần phật đập gió của muôn vàn con dơi và tiếng vù vù của những con bọ bay. Đêm hiền dịu cho phép muôn loài được lên tiếng, cho phép mọi sinh linh được bình đẳng cất tiếng nói của mình, để cuối cùng tạo nên bản đại hợp xướng phồn thực, âm thầm. Bản đại hợp xướng ẩn ngầm đó, Pierre đã bất chợt bắt gặp và cảm nhận được trong đêm rừng nhiệt đới. Cái đêm đen kịt, tưởng như chẳng có gì trong đó, thực ra chứa đựng rất nhiều thứ. Pierre chợt có cảm nghĩ khác thường: chính cái đêm đen ấy, chính sự phồn thực bí nhiệm và tưởng như tầm thường ấy có một sức mạnh ghê gớm mà ta không lường hết được. ông René, lập lòe điếu thuốc trên môi. ông không trả lời, bình luận ý nghĩ ấy của chàng trai. Pierre gặng hỏi lại câu hỏi từ lúc nãy:

- Sao lại nói học sự cam chịu?
Nhà dân tộc học như một thầy phù thủy, ông đã đoán được những ý nghĩ của chàng trai:
- Thì anh đã hiểu rồi đấy. Đêm đen đã giảng dạy cho anh. Chúng ta phải biết cái thân phận nhỏ bé của mình. Sự cam chịu như chiếc áo khoác tàng hình che đậy cái bên trong tiềm tàng bùng nổ dữ dội.

Cả hai người lại im lặng. Ôi! Cái phương Đông đầy bí ẩn mà sao chúng ta cứ coi thường. Gió rừng hiu hiu thổi. Muôn thứ hương đột nhiên trỗi đậy. Khứu giác của con người vốn đã bị cùn nhụt đi vì cuộc sống tiện nghi ít phải dùng đến nó. Hay là bởi phương Tây giá lạnh làm teo tóp thứ giác quan nguyên thủy đó chăng. Do đó sự cảm nhận tinh tế mùi hương không có điều kiện để phát triển. Người ta bảo ở xứ nhiệt đới, sự lúc nhúc, sự phồn thực nằm nhiều trong không khí. Đêm nay, khứu giác vốn bị teo tóp của Pierre, đã bao năm ít dùng đến, hình như bỗng dưng thức giấc. Một thứ hương ngọt ngào chợt bay qua. Hương thức dậy mới đầu lãng đãng, e ấp như cô gái mới dậy thì, sau đó nó dào dạt, rồi tới chỗ cuồng nhiệt. Thậm chí có lúc hương trở nên ngọt ngào, nức nở... Rồi thì bỗng nhiên, nó lại tan đi rất nhanh. Cứ tưởng như trong mơ và hương ấy chưa hề xuất hiện. Bởi vì bây giờ tất cả lại như không, không khí vẫn trong trẻo song nó đã quay trở về cái vị trung gian nhạt nhẽo. Nhà dân tộc học giải thích:

- Mùa xuân ở đây có vô vàn loài hoa. Rừng nhiệt đới rất nhiều hoa phong lan. Có khu rừng nguyên sinh, cây vươn lên rất cao; và ở tất cả các cây cao ấy, ngọn nào cũng có phong lan. Ngoài loài phong lan ký sinh sặc sỡ và rực rỡ đó, rừng còn biết bao thảo mộc có tên và không tên khác. Có những cây hoa li ti chỉ bằng đầu que diêm, có những cây hoa xòe như bàn tay; có thứ lại là những chùm uốn rủ. Mùa xuân ở đây hầu như toàn bộ cây rừng trổ hoa chẳng sớm thì muộn. Chúng tạo thành hội hoa tưng bừng chỗ trắng, chỗ nâu, chỗ đỏ rực, chỗ vàng chóe, chỗ sặc sỡ, chỗ tưng bừng. Gió thổi tung phấn hoa lên trời. Phấn hoa trộn vào không khí để lan tỏa, để mời gọi bướm ong côn trùng đến tạo ra mùa sinh nở, mùa giao hoan phồn thực ngọt ngào vĩ đại. Các sinh vật ở đây đều sinh sôi rất mạnh là thế đó. Cũng có thể thứ phấn hương ấy còn có tác động mạnh đến con người mà ta chưa biết đến chăng. Anh có để ý đến cách tung hương của hoa rừng lúc nãy không? Nó giống một vũ điệu giao hoan. Vũ điệu tình yêu của con đực và con cái. Mới đầu là múa vờn, nhẹ nhàng và ve vuốt. Rồi đến nhịp nhàng êm dịu, cái háo hức cứ tăng dần cho tới khi đạt tới đỉnh điểm cuồng nhiệt và chiếm đoạt. Nhận và cho tất cả, để rồi cuối cùng no nê và tĩnh lặng...

Điếu thuốc lá trên môi René de Frometin lập lòe. Cuối cùng, ông thì thầm vào tai Pierre:

- Ở xứ phương Đông, còn nhiều điều bí ẩn mà ta chưa biết hết. Ta đi khai hóa cho họ, nhưng ta đã hiểu gì về họ. Trông cái bề ngoài cam chịu nhẫn nhịn ấy, nhưng ở bên trong nó còn ẩn giấu những gì ta đâu có biết. Ở rừng có lắm cơn giông tố thật bất ngờ.

Sau đó, hai người im lặng rất lâu. René và Pierre không nói để cảm nhận, để nghe hương của đất cựa mình, trỗi dậy, tràn ra. Cái thứ hương lạ lùng ấy - nhà dân tộc học bảo - hiếm khi ta cảm nhận được lắm. Hai người cứ ngồi rình đến quá nửa đêm, căng tai căng mũi ra mà cũng không gặp được nó. Cái đêm gặp gỡ trứ danh ấy với nhà dân tộc học René đã cho Pierre biết thêm một điều: đất cũng có hương. Pierre biết rằng trong đất có tỉ tỉ ức ức những con sâu bọ, côn trùng, giun dế, đất là quê hương, nơi trú ngư của chúng. Ở đó, chúng đào bới xáo trộn, chúng tranh giành chiếm đoạt. Tất cả vì sự tồn vong.Hương đất ra sao? Có phải nó hăng hắc ngai ngái? Có phải nó ngọt ngào ngầy ngậy? Có phải nó là mùi của lá chết, cỏ nát. Có phải nó là mùi dịu dàng hấp dẫn, như lời ru của mẹ, mời gọi ta hai tay buông xuôi, trở về vĩnh hằng, vuốt ve làm mắt ta nhắm lại cam chịu số phận cát bụi. Tiếp cận với đất có khi ta thở phào, có khi rưng rức. Tay bốc nắm đất, có người đưa đất lên miệng mà hôn, mà ăn, có người úp mặt vào đất mà nức nở... Rồi có người bằng lòng trở về với đất, và cũng có người thì tung đất lên trời rồi bỗng như mọc cánh bay cao... Đó là sự tiếp xúc cận kề đối mặt với đất. Và có lẽ chỉ đến phút đỉnh điểm ấy con người mới tìm ra hương đất.Bên trên là những cảm nghĩ mơ hồ của Pierre về đất. Còn sau đây là những suy nghĩ của ông René về đất. Chúng hệ thống và duy lý hơn:

- Ở xứ sở này, chỗ nào, nhà nào cũng thờ thần đất. Đất cũng có hồn, đó là Hồn Đất. Nó là tổng hợp của những hồn người, hồn ma, hồn cây cỏ, ao hồ, cả hồn đá nữa. Chúng ta thường chê dân bản xứ là vô đạo, thực ra họ là những kẻ phiếm thần giáo. Họ tôn sùng sự bí ẩn, thiêng liêng của tất cả Thiên Nhiên. Mới đầu, tôi cũng như anh đều cho họ là những kẻ tà giáo. Nhưng điều cay đắng mà tôi nhận ra: đó tức là người dân ở xứ này biết hòa vào thiên nhiên. Họ tự nhiên hơn chúng ta. Vậy thì đúng sai ra sao? Ta đi khai hóa cho họ tức là ta muốn họ biến thành ta. Nhưng chúng ta đã ăn thức ăn của họ, đã uống nước trong suối nguồn của họ, đã ngủ với đàn bà của họ. Ta đã thống trị họ. Ta đã làm cho họ khóc trong lúc chúng ta cười. Vậy thì ai sẽ thành ai. Hãy coi chừng đấy. Sẽ có ngày nào đấy, hồn đất quyết sẽ trả thù. Hồn đất của họ nhiễm vào từng chúng ta, dần dần từng tí một mà chúng ta chẳng hề hay biết. Lúc đó, tâm hồn ta sẽ từ trắng biến thành vàng. Họ cam chịu ư? Họ hèn hạ ư? Hãy coi chừng! Để rồi xem, hồn đất sẽ trả thù.
- Ôi! Sao lại nói thù hận Ở đây? Chúng ta là người đi bảo hộ che chở cho họ cơ mà.

Nhà dân tộc học như người say, ông bỗng đứng phắt dậy, cười sặc cười sụa, cười đến chảy nước mắt, cười đến văng cả chiếc kính cận thị ra bãi cỏ, khiến Pierre phải bò lồm cồm, mò mẫn trong bóng tối tìm kính cho ông. Còn René, ông như kẻ mù lòa, quờ quạng hai tay trước mặt. ông vẫn cười:

- Tôi là kẻ cận thị, đúng! Tôi là kẻ quáng gà, thậm chí kẻ mù lòa...

***