Mẫu Thượng Ngàn - Phần 05 - Chương 02 - Part 02

Phần V - Chương2

Pierre rất sợ hổ. Người ta đồn rằng ở xứ sở này hổ nhiều như rươi. Đi qua đồi cỏ tranh, những người thổ dân khuân vác được gọi là cu li bảo mỗi người phải lấy hai thanh nứa cọ xát vào nhau, rồi đập vào nhau để đuổi hổ. Tất cả đều phải nghe theo. Vậy là, mười người với mười bộ gõ tạo ra những tiếng kèn kẹt ghê người, và những tiếng lách cách rộn ràng núi rừng. Núi dội âm thanh trở lại làm cho tiếng lách cách càng thêm ồn ĩ. Tiếng lách cách chẳng nhịp nhàng, chúng là những tạp âm lộn xộn, thứ âm nhạc ghê ghê của loài ma rừng. Những đàn chim đầu đỏ, ức và bụng cũng đỏ, chỉ có cánh là vàng và xám, thỉnh thoảng lại vút lên từ những rừng tre, tạo thành những đám mây chim màu hồng chập chờn bay trên những quả đồi trọc.
Đến chặng nghỉ cũng chẳng được yên. Tiếng lách cách im đi, thay thế vào đó người ta kể chuyện hổ. Những con hổ trắng, hổ xám thành tinh báo oán. Chúng chẳng sợ gì, dám tấn công cả người da trắng. Vậy là cái không khí rờn rợn, bí hiểm cứ bám lấy Pierre cho tới lúc lại lên đường. Lúc này, trung úy chỉ huy tổ chức đoàn người cẩn thận hơn. Đi đầu là mấy con ngựa thồ, tiếp đến là đoàn cu li, theo sau là thiếu úy Bonard, chuẩn úy Pierre cầm súng, rồi tiếp nữa là bác sĩ và ngài tiến sĩ René, đoạn hậu là trung úy trưởng đoàn cùng chiếc xe trâu. Bây giờ, chỉ còn ông tiến sĩ René, ngài bác sĩ và những người ghi hàng gõ thanh nứa. Lúc này tiếng gõ nghe chừng rộn ràng hơn. Thiếu úy Bonard vẫn vui chuyện:
- Khi vào rừng, tất nhất ta nên đi cùng một người bản xứ.
- Đi cùng một người da trắng không được sao? - Pierre hỏi.
- Không được? Tốt nhất vẫn là người bản xứ.
- Tại sao vậy?
- Tại vì hổ thích ăn thịt người bản xứ hơn.
- Tại sao hổ lại thích ăn người bản xứ? - Pierre cố hỏi cho rõ.
Bonard chưa kịp trả lời, nhà dân tộc học René hình như cũng hứng thú liền xen vào câu chuyện:
- Có phải vì người da trắng là giống người làm việc trí óc, thịt không ngon. Còn người bản xứ là giống người làm việc cơ bắp nên thịt ngon hơn. Dĩ nhiên hổ là giống sành ăn phải vồ người bản xứ trước tiên.
- Đúng vậy! - Bonard gật đầu tỏ vẻ khoái trá.
Nhà dân tộc học bỗng cười to ha hả, cười đến chảy nước mắt, cười đến văng cả kính giống như lần trước. ông lại biến thành kẻ mù toa. Khi bỏ kính ra, đôi mắt ông lờ đờ, lồi ra như hai con ốc nhồi. ông lại giơ hai tay ra phía trước quờ quạng dò dẫm như người mù, miệng kêu lên:
- Anh Pierre? Giúp tôi với.
Cả đoàn cười vang. Tiếng lách cách ngưng lại. Họ quên mất cả sợ hổ. Cả đoàn dừng lại, chờ Pierre vào đám cỏ tranh, tìm kính cho ông René.
***
Sớm hôm sau, đoàn người lên đường đến một tọa độ mới. Nhiệm vụ mấy người lính là phải vẽ xong bản đồ địa hình khu vực này. Đáng lẽ phải làm xong từ mấy tháng trước, song viên công sứ báo về nói tình hình chính trị ở khu vực này vẫn chưa ổn lắm nên đoàn khảo sát không đến được. Còn bây giờ, ở đây đã hoàn toàn yên tĩnh nên công việc phải tiến hành thật nhanh. Chỉ còn khoảng hơn ngày đường nữa là đến được nơi đã định.
Lúc sương tan, người dẫn đường bắt đầu mở lối. Phải mở rộng thêm con đường mòn cho xe trâu đi vào. Con đường đất, vì mưa to, trở nên nhão nhoét. Lúc này trời nắng, đất khô đi chỉ còn để lại những vết chân trâu. Hai bên đường là những đồi lau, đồi sim nơi mọc đầy những cây hoa ngũ sắc màu đỏ, vàng, tím. Pierre trông thấy cả một quả đồi hoa ngũ sắc như một mâm hoa lùm lùm rất đẹp.Những người trong đoàn đều đã dạn dày rừng núi, cho nên trang bị của họ rất gọn gàng. Phần lớn họ đội mũ lá rộng vành, chân đi đất. Cả đến nhà dân tộc học René cũng mặc quần dài buộc túm cổ chân và đi chân không. Họ chịu khổ rất giỏi, có thể ăn bất cứ thức gì ăn được, có thể ăn uống như thổ dân; có thể ngủ bất cứ nơi nào ngủ được, có lúc ngó quanh bếp lửa nhà sàn, có lúc đốt đống lửa rừng lên và cắm lều trại chung quanh.
Chỉ riêng Pierre, anh chàng mỏ trắng, là vất vả thôi. Hành lý thì cồng kềnh, trên đầu thì chiếc mũ sắt nặng trịch, dưới chân thì đôi ghệt da cứng quèo (có lẽ bằng da trâu). Do vậy nên mới đi được hai hôm, Pierre đã khập khiễng. ông René bảo:
- Bỏ mũ sắt đi, kiếm chiếc mũ lá đội cho nhẹ. Nhất là đôi chân, phải tập dần dần sao cho cuối cùng gan bàn chân thành chai, có thể bỏ giày ra đi đất được như chúng tôi Hãy tập như sau: Mới đầu có thể đi đôi tất len không giày Đi một hai hôm tất rách thì xé áo, xé quần lấy vải mà buộc lại. Đi chừng một vài tuần sẽ quen. Nên nhớ, ở xứ Bắc Kỳ này phải tập chịu khổ, sự tiện nghi quá đỗi sẽ giết chết anh, chí ít nó cũng vô hiệu hóa anh. Nếu không chịu đựng được, anh sẽ là kẻ vô dụng, suất ngày rên la. Cuối cùng, anh sẽ chết, hoặc xin quay về Pháp.
Pierre đâu có thể chịu thua dễ thế. Anh bỏ giày, đi bằng đôi tất. Quả nhiên, lúc đầu, thấy dễ chịu thật. Nhưng đi được nửa buổi đôi chân của Pierre nóng như lửa, bỏng rát. Anh chống gậy cắn răng mà đi. Trung úy trưởng đoàn thương tình, bỏ hàng Ở lưng ngựa thồ vào xe trâu, để ngựa cho anh cưỡi. Giống ngựa này là giống ngựa nhỏ, chỉ cao bằng con la bé, khi Pierre cưỡi hai chân anh gần sát đất. Vả lại, anh vừa nặng vừa cao lêu nghêu, con ngựa mang anh khó hơn thồ hàng rất nhiều. Con ngựa không quen, tỏ ra bất mãn với thứ hàng lạ trên lưng. Nó hục hặc, hí lên rồi lắc mạnh. Con ngựa phản ứng bằng cách chạy nhắng lên, nó muốn hất anh xuống đất. Hất mãi không được, nó đứng yên, ì ra, đánh roi vào đít cũng không chịu đi, chỉ hí vang. Cuối cùng, Pierre đành đi bộ. ông René chặt hai cành cây có chức làm hai cái nạng. ông an ủi:
- Hãy chịu khó. Tối nghỉ, ngâm chân bằng nước nóng, chỉ mai kia là quen thôi.
Quả nhiên, hôm sau rồi đến hôm sau nữa, chân anh dần dần thích ứng.
Có bận, đoàn mệt nghỉ lại bên đường, bỗng gặp một đoàn người chiêng trống tưng bừng, tiền hô hậu ủng, đi tới. Thấy có lọng che, Pierre nghệ chắc một ông quan bản xứ vi hành qua. Dè đâu lại là đoàn vi hành của ông công sứ người Pháp. ông này sang Bắc Kỳ chắc đã lâu nên học được sự khoa trương của các ông quan An Nam. Quan công sứ vi hành bằng võng. Chiếc võng đan bằng sợi tơ tằm nhuộm đỏ, treo trên một cây gỗ sơn màu cánh gián. Quan vắt vẻo ngồi trên võng, trên đầu là cái mui trông như chiếc thuyền nhỏ úp ngược. Mui đan bằng tre rồi trát bằng thứ vữa nhẹ, phủ sơn mài bóng loáng, màu đỏ. Đám rước ngài công sứ người Tây có chiêng, trống, cờ, quạt dẫn đầu. Võng đi giữa. Cuối cùng là hai tiểu đội lính bảo vệ bồng súng đi ắc ê. Lính bảo vệ mặc quần áo trắng toát, đầu đội mũ có ngù đỏ. Đoàn vi hành thật nhiều màu sắc, trông ngộ nghĩnh rất vui mắt. Nó sặc sỡ như một con chim rừng lạ lẫm. Cái võng điều mui đỏ như một bông hoa chói lọi mọc trong núi. Bông hoa ấy chung quanh là màu trắng, màu vàng, màu xanh. Nó nửa Tây nửa an-na-mít. Nhà dân tộc học nhìn đám rước diễu qua, cười khục khục trong cổ họng. ông bảo Pierre:
- Anh coi chừng. Sống ở đây vài năm, con người dễ bắt chước con công, suất ngày khoe múa mà không biết chán.
Ngài công sứ gặp đoàn khảo sát, liền ra lệnh hạ cáng. Louis viên trung úy trưởng đoàn đứng nghiêm cứng đơ chào ngài công sứ theo kiểu nhà binh. Quan công sứ úy lạo:
- Các ông đi từ tỉnh, đến được vùng này là rất tốt. Rất tốt? Có nghĩa là ánh sáng văn minh đã đến được xó rừng này. Các ông tận mắt nhìn thấy đấy. Tôi đã du hành bằng võng trong rừng, Ở đây đã rất an toàn. Chúc các ông mã đáo thành công.
Đoàn người tiếp tục hành trình, trong tâm lý vô cùng hào hứng. Đám rước ngài công sứ tuy có sắc thái vênh vang pha chút hài hước - Cả đoàn cứ cười giòn và bàn tán mãi, vì ở nước Pháp họ chưa hề bao giờ gặp một đám rước tương tự - Tuy nhiên nó lại có tác dụng rất lớn trong việc xua tan những nghi hoặc và phấp phỏng của mọi người. Đám rước ấy toát lên sự an toàn, và sự chiến thắng của người Pháp là hoàn toàn và thật sự. Những thoáng nghi hoặc cuối cùng cũng bay đi hết, khi đoàn người cảm thấy khu rừng nhiệt đới như bỗng cất lên tiếng hát.Ở rừng nhiệt đới thường rất im ắng. Có lúc sự im lặng cứ như chết khiến người ta sởn tóc gáy. Song đôi khi, tiếng động bỗng nở rộ. Tiếng động bất thình lình nổi dậy, cứ như thể có một nhạc trưởng vô hình nào chỉ huy. Không phải tiếng động mà là một dàn nhạc rừng, có lớp lang hẳn hoi. Pierre mường tượng khi cái gậy chỉ huy giơ lên là tiếng suốt rừng tạo thành một cái nền âm thanh rì rào. Bắt đầu là tiếng con bách thanh líu lo. Rồi tiếp đến bầy khỉ bị kích động, một con cất tiếng kêu kéo theo một đàn kêu, một đàn kêu gọi toàn thể khỉ trong rừng có lẽ đến vài ngàn con cất tiếng khẹc khẹc Ở khắp bốn phía. Thế là hàng vạn con chim nấp trong những vòm lá rậm rạp đều cất tiếng hát. Rừng hát hay rừng động. Tiếng ca hát hay rừng báo hiệu một thế lực mạnh mẽ vô hình nào đó xuất hiện…Pierre không biết, nhưng thực bụng anh rất thích thú. Rừng nhiệt đới đã mê hoặc người họa sĩ. Anh vẽ ký họa rất nhiều. Cứ đến mỗi đợt nghỉ anh lại hí hoáy vẽ. Đôi mắt anh như chiếc máy ảnh. Dọc đường đi, nó ghi lại bao nhiêu cảnh, bao nhiêu màu sắc. Anh nghĩ: Chả thế mà Gauguin đã bỏ cả châu âu tiện nghi để đến Tahiti. Những bữa tiệc màu sắc luôn thiên biến vạn hóa trước mắt anh. Anh cho rằng viên công sứ cũng là người cảm nhận màu sắc như anh. Đứng ở góc nhìn của người châu âu, người ta thấy đám rước ngài công sứ là lòe loẹt, thiếu tinh tế, vênh vang, hài hước. Nhưng ở góc độ người họa sĩ, màu sắc đám rước thật đẹp. Núi rừng đang bằng phẳng một màu xanh lá cây, đột nhiên xuất hiện màu trắng của đám lính, màu vàng, tím của những lá cờ, lọng che. Rồi màu đỏ của cái võng điều xuất hiện làm núi rừng ấm hẳn lên. Đây không phải màu đỏ chót chói chang mà là màu đỏ của thứ sơn đã được pha nâu làm dịu đi. Pierre hiểu viên công sứ hơn các người bạn của mình.Rừng vẫn hát. Pierre cho rằng đó là lời chào mừng của rừng đón tiếp đoàn. Nhưng mấy người cu li khuân vác lại có vẻ sợ với những đôi mắt lấm lét. Họ lại cho rằng có một âm hồn nào đó vừa mới ngang qua khu rừng. Và rừng cất tiếng hát là để chào đón âm hồn bí mật đó, chứ không phải chào đón đoàn khảo sát. Đám người Pháp độ lượng mỉm cười vì những ý nghĩ quá ư thơ ngây của những con người khốn khổ này. Họ nghèo khó quá, sự nghèo khó đã dìm họ vào đêm dài mê muội. Họ bị đắm chìm trong bóng tối đến nỗi ở chỗ nào họ cũng thấy bóng dáng những thần linh, ma quỷ. Bất cứ điều gì khác thường, đối với họ, đều là dấu hiệu xuất hiện của một thế lực siêu nhiên.Pierre lại càng cảm thấy thương cho họ khi đoàn khảo sát gặp một chiếc nhà mồ. Đó là một chiếc lều nhỏ làm theo kiểu nhà sàn. Chung quanh lều ở bốn góc cắm bốn cành tre. Trên đầu các cành tre, treo những dải giấy đỏ, vàng thõng xuống. Trên các tờ giấy, vẽ những chữ ngoằn ngoèo không ai đọc nổi. Đó là những đạo bùa trấn yểm. Trên cái sàn nứa ngang mặt người đặt một bát hương với những nén nhang cháy dở. Người cu li già nói bằng tiếng địa phương, giảng giải cho nhà dân tộc học:
- Mồ này rất thiêng. Dân trong vùng gọi là nhà mồ của quỷ không đầu. Có ba người quân của cụ Đốc ngữ bị quan Tây chặt đầu tại đây. Quan Tây mang đầu họ lên tỉnh. Dân Mường đem chôn ba cái xác không đầu tại quả đồi này. Nhân dân trong vùng bảo miếu này là miếu thiêng. Hằng đêm, vẫn thấy ba cái hồn ma trắng toát, không đầu bay trên đỉnh đồi rồi múa lượn. Ai vào rừng, qua đây không chịu lễ bái thường bị các ngài bắt mất hồn vía.
Nghe ông René dịch lại, Pierre càng thấy thương cho những người dân hiền lành chất phác này. Lòng hiu hiu buồn, Pierre cầm cặp vẽ lững thững một mình leo lên đỉnh đồi. Anh định ghi chép lại cảnh đám rước ngài công sứ René gọi to:
- Cậu lên đỉnh đồi làm gì?
Người cu li nói:
- Đừng lên! Người ta bảo ma cụt đầu thường hiện trên đó.
Pierre quay lại bảo:
- Đừng lo cho tôi.
René nhún vai. Còn Pierre, anh thản nhiên đứng trên đỉnh đồi, ngắm cảnh vật phơi ra trước mặt. Ở đây, nhìn thấy cả những cánh đồng, một con sông như dải lụa trắng ngoằn ngoèo trải trên màu xanh của lúa. Pierre ngồi xuống, anh không vẽ lại đám rước, mà vội vã phác họa cái cảnh yên bình trước mặt. René bắc tay làm toa gọi lên:
- Thôi, đủ rồi, xuống đi.
Còn Pierre, anh vẫn đứng nguyên. Tại sao không xuống, anh cũng không biết nữa. Chỉ biết rằng lúc đó Pierre thấy rất thoải mái khi đứng ở trên cao. Có cái gì đó làm lòng anh bức bối. Ở trên cao, anh thấy mình được giải tỏa, được sổ lồng. Rồi không biết có cái gì thúc đẩy trong lòng, không biết có cái gì bỗng làm anh phấn hứng vô cùng, để rồi anh làm một động tác, mà những lúc bình thường anh sẽ tự chế giễu mình là lố lăng. Anh bỏ chiếc mũ lá trên đầu ra cầm tay, sau đó quay vòng tròn chiếc mũ lá trên không mà cất tiếng hét vang:
- Hơ hơ hơ!... Hơ hơ hơ!...
Cứ như thể một conquistador tìm được đất mới. Cử như thể một nhà phiêu lưu tìm thấy một kho vàng. Ai dạy anh làm động tác ấy. Hay động tác ấy là động tác kiểu mẫu của tất cả những người thuộc địa, những người đi chinh phục đất mới. Đó là động tác nằm lòng năm sẵn trong vô thức mà các nhà chinh phục chẳng cần học cũng biết, cũng phát ra vì chợt cảm thấy mình ở trên đỉnh cao.
- Hơ hơ hơ!
Mọi người đều mỉm cười thông cảm khi thấy Pierre biểu lộ niềm kiêu hãnh. Anh đang phấn chấn, hào hứng như vậy, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng động nhỏ. Một cái gì quật vào gió thì phải. Có thể là tiếng vỗ cánh của một con chim. Có thể là tiếng gió thổi vào lá. Một tiếng phật nhẹ. Pierre chưa kịp ý thức được điều gì đã xảy ra, thì bỗng cảm thấy nhói một cái. Anh quay nhìn về phía nhói, trông thấy ngay một mũi tên cắm vào cánh tay trái. Mũi tên ngọt lịm làm cho anh chẳng cảm thấy đau đớn. Anh bình tĩnh rút mũi tên ra, nhìn theo hướng tên, bỗng trông thấy một bóng người mặc quần áo chăm. Anh giơ súng bóp cò. Nhưng hình như khẩu súng lục không chịu tuân theo sự điều khiển của anh nữa. Viên đạn bổng lên trời Và Pierre chợt thấy đầu óc quay cuồng. Anh loạng choạng bước được vài bước, sau đó ngã gục xuống đất.
Trung úy Louis, thiếu úy Bonard và những người khác hô hoán: "Bắt lấy nó! Bắt lấy nói". Pierre chỉ nghe thấy đạn nổ liên hồi, và chân chạy tinh rịch. Cuối cùng, kẻ bắn nỏ cũng bị trúng đạn và bị bắt. Pierre nằm quay trên đất. ông bác sĩ Petit nhanh nhẹn tiêm thuốc cấp cứu Pierre nghe loáng thoáng: "Mũi tên độc", rồi cả những tiếng báng súng đập vào đầu tên bắn lén.
- Mày là ai?
- Tao ghét chúng mày.
- Mày sẽ bị chặt đầu.
- Chết tao cũng không sợ. Tao sẽ là ma. Tao sẽ trả thù.
Một cái thây không đầu thứ tư được chôn ở quả đồi này. Chiếc đầu lâu ròng ròng máu được nhất trong chiếc lồng gà, treo lủng lẳng bên con ngựa đưa về tỉnh.Như vậy, tình hình chính trị vẫn chưa ổn. Đoàn khảo sát buộc phải quay về tỉnh. Chiếc đầu lâu được cắm vào cây cộc tre bêu giữa chợ. Còn Pierre được đưa vào nhà thương.