Mẫu Thượng Ngàn - Phần 09 - Chương 03 - Part 02

Chương 3

Thỉnh mời bát bộ sơn trang.
Bên thời thập nhị tiên nương chầu vào.
Nghe giọng hát ấy người ta xuýt xoa, nức nở khen. Cụ đồ Tiết cũng hài lòng ra mặt. Như vậy là cuộc trình làng của Trịnh Huyền thành công. Người ta chẳng có cớ để nghi ngờ Huyền nữa. Rõ ràng con trai cụ, anh Phác ngày xưa có biết đàn hát gì đâu. Còn Huyền đánh đàn điêu luyện. Chỉ có người chân truyền tổ, gốc thành Nam mới đàn được như vậy thôi.Cuộc hầu bóng đã bắt đầu. Một ông già đánh ba hồi trống. Con gái cụ đồ, bà đồng Mùi ngồi trên chiếc chiếu cạp điều. Người hầu dâng trùm khăn đỏ lên đầu bà. Mới đầu bà đồng chỉ lắc lư, rồi cái đầu xoay tròn. Tiếng đàn vê tít ở cung bậc cao. Đèn nến lung linh. Hương khói mù mịt. Con người đã nhập vào một thế giới khác hẳn. Bà Mùi chợt lắc đầu, hất chiếc khăn đỏ tung ra. Bà đang hầu giá cô Chín. Cô mặc áo hường. Cô chít khăn đỏ. Tay cô cầm quạt. Tay cô cầm hương. Cô yểu điệu múa nhịp nhàng cùng với tiếng đàn... Cô hầu đức Mẫu. Cô đưa võng bỗng tít lên chín tầng mây. Giọng hát của Nhụ cũng bay vút lên theo:
Đức Mẫu ngự chín tầng mây.
Cô nay mắc võng ngự rày cây sung.
Rồi tiếp theo:
Cô Chín ngự đồng dệt gấm thêu hoa.
Thêu loan thêu phượng cô thêu ra đôi rồng chầu.
Anh cu Điều đã nghe câu hát này ở giữa cánh đồng. Ô hay! Sao hôm nay câu hát nghe khác hẳn đi. Và phải ở trong không khí hôm nay Điều mới thực hiểu thế nào là dệt gấm thêu hoa. Đó là gấm hoa cả ở trong cung đàn thánh thót nâng hồn người bay lên. Đó là những đám mây vờn quấn quýt trong khói hương như sương núi giăng giăng. Đó cũng là cái óng ánh của lụa hồng gấm đỏ. Đó cũng là lung linh chập chờn ánh nến, cộng với tiếng hú, với nhịp nhún nhảy làm cho người nghe có thể mường tượng ra cô Chín đang đánh võng cùng tiếng họa mi. Đó còn là tiếng ngân nga vừa thanh vừa giòn vừa nãy của Nhụ, thật không ngờ một cô gái chăn bò, giữa đám đông cả làng lại dám mạnh dạn hát tài đến thế. Tất cả như muốn dìu ta vào cõi ảo, vừa thanh thoát vừa vơi nhẹ. Ở đây, con người như được gột rửa sạch sẽ mọi tục lụy để trở nên thanh thản... Đến cả Điều, một chàng trai mạnh mẽ không chút mơ mộng, cũng cảm thấy mình đang lạc vào một cõi khác.Ba tiếng chuông ngân. Bà Mùi giơ tay ra hiệu. Ông Huyền lập tức chuyển giọng hát sang bài văn về chầu Mười Đồng Mỏ. Chầu Mười là một nữ tướng thời Lê Lợi. Giọng hát Xá thượng khỏe mạnh, rộn ràng làm mọi người náo nức:
Gặp thời Thái Tố trung hưng
Theo vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu
Chầu Mười trấn giữ các châu
Sơn trang tám tướng nói chầu ra binh.
Chầu Mười mặc áo xanh chít khăn xanh. Chầu Bà múa kiếm rất dẻo. Cô hầu dâng xuýt xoa:
- Tấu lạy chầu bà! Chầu xinh đẹp quá. Chầu oai phong lẫm liệt. Cung văn hát hay. Xin chầu ban tài phát lộc cho cung văn.
Chầu Mười hiền từ quay sang Nhụ, cho cô một đồng xu. Chầu vốn là người thân con của Mẫu. Cho nên chầu nói tức là Mẫu nói:
- Con là đứa con ngoan của Mẫu. Người cho con xinh xắn. Cho con đôi bàn tay dệt gấm thêu hoa. Cho cả giọng hát hay chẳng ai bì kịp. Dặn con điều này: gắng mà nhớ lấy: “Khi nào mưa to gió lớn, con cũng đừng sợ. Hãy cầu xin. Mẫu sẽ đến che chở cho con”.
Chầu Mười còn gửi lời Mẫu phán bảo cho nhiều người khác. Riêng Nhụ, cô cứ băn khoăn mãi lời dạn: “Bao giờ mưa to gió lớn...”. Không hiểu câu tiên tri ấy nghĩa là gì nhỉ?
***
Trong khi đám lên đồng tại đền Mẫu đang lúc tưng bừng, thì ở ngôi nhà lớn đồn điền Messmer, Julien nói với Pierre:
- Đời sống dân An Nam này thật sự còn nguyên thủy. Vắng chúng ta, họ toàn làm điều ngốc nghếch. Hôm nay, họ kéo nhau tới một ngôi đền núi. Họ làm lễ tế thần linh, rồi nhảy múa điên rồ như những người dân châu Phi, mà một lần đi qua em đã thấy.
Pierre cười mỉm và hỏi bằng cái giọng như chế nhạo:
- Thế ở đây, họ có đánh trống bập bùng như người da đen không?
- Điều đó em chẳng biết. Song chắc chắn đây là một tà giáo.
- Tà giáo ư? - Pierre đang đọc sách bỗng đặt cuốn sách xuống, rồi nói một cách mơ màng. – À… Phải rồi... Chính tôi cũng đã chịu ơn họ, chịu ơn một tà thuật của họ nên đã không trở thành một kẻ rồ dại. Không biết tôi đã kể chuyện ấy với chú chưa nhỉ?
- Anh đã kể rồi… Hồi ấy em còn ở Pháp đang học trường sĩ quan...
- Thế còn câu chuyện cúng lễ trên núi Mẫu như hôm nay?
- Anh chưa nói
- Thế là chú chưa được tận mắt trông thấy. Vậy tôi biết nói với chú thế nào đây? Còn tôi, tôi đã được dự một cuộc hành lễ của họ như hôm nay. Không phải giống như người châu Phi đâu. Họ không đánh trống bập bùng. Chủ yếu họ đàn và hát. Đạo của họ thờ Mẹ trời, Mẹ đất, Mẹ nước. Họ nói đó là đạo Người Mẹ. Có thể nói gọn, đó là đạo thờ khí thiêng của thiên nhiên, thờ người Mẹ đã sinh ra thế gian này. Thờ như vậy tức là thờ những điều cao quý nhất. Đâu có phải tà giáo. Họ say sưa đánh đàn với những giai điệu tuyệt mỹ, rồi họ hát, đốt hương trầm và nhảy múa. Bây giờ chú là người chủ chốt điều hành mọi công việc của đồn điền, cũng có thể nói của cả vùng này. Chúng ta rất cần sự đồng tình của người dân bản xứ. Chú nên nghe tôi. Nên tôn trọng mềm tin của họ, nếu ta muốn họ đặt lòng tin vào chúng ta.
Julien rất bình tĩnh nghe người anh nói. Ông ta chứng tỏ những suy nghĩ của mình không phải một định kiến, mà là những điều đã suy xét, đã cân nhắc.
- Còn em, em không có lòng tin đối với họ. Hãy quan sát họ mà xem. Khi gặp chúng ta, người bản xứ đều khúm núm, sợ sệt nịnh nọt. Nhưng ở sau lưng chúng ta, họ luôn âm thầm tạo những âm mưu. Em không thể tin họ được vì em đã có kinh nghiệm đau xót. Câu chuyện xảy ra cách đây năm bảy năm. Lúc đó em mới ở Pháp sang. Một thiếu úy mỏ trắng, hoàn toàn tin vào lý tưởng khai sáng của người Pháp, và còn tin rằng người bản xứ rất biết ơn xứ mẹ. Lúc bấy giờ quân phiến loạn Đề Thám từ Yên Thế tràn sang Thái Nguyên và Phúc Yên. Họ bắt cóc một viên chức người Pháp tên là Voisin làm con tin. Toàn quyền Pháp ra lệnh cho quân đội phải cứu bằng được Voisin. Lúc đó, ta điều động hơn hai trung đoàn đi cứu. Em làm phó cho đại úy Pertuis, chỉ huy một đại đội lính truy kích quân Đề Thám. Quân phiến loạn bí mật kéo binh lên núi Sáng Sơn. Quân Pháp bao vây hòn núi, triệt đường tiếp lương của họ. Quân Đề Thám phải phá vòng vây, rút chạy từ làng này qua làng khác. Đại úy Pertuis ra lệnh triệt hạ đốt một ngôi làng, vì làng này đã che chở cho phiến quân. Lúc ấy, Pertuis nói với em: “Không được thương xót, nhân đạo với người An Nam, bởi vì họ là những người phản phúc. Nếu ta nhân đạo với họ, tức là ta đang tự vẫn”.
Đuổi đến Kim Anh, Phúc Yên, thì Đề Thám thả Voisin. Người Pháp phấn khởi lắm. Nhất là khi họ biết quân phiến loạn đang đóng binh ở làng Hiền Lương. Chúng tôi vây Hiền Lương. Khi chúng tôi đến, các cụ già trong làng bày hương án ở gốc đa trước cửa đình đón tiếp. Họ xì xụp quỳ lạy các quan lớn. Cho đến cả Pertuis là người cứng rắn và cảnh giác nhất cũng phải mềm lòng. Chúng tôi yên trí quân phiến loạn hoàn toàn hết sức kháng cự và hành động khúm núm của các ông già chứng tỏ họ đã đầu hàng. Quân lính Pháp xông vào làng. Chúng tôi đã lọt vào một mê hồn trận của những con đường ngõ xóm quanh co. Chỗ nào cũng là những bụi dứa dại, lũy tre và hồ ao. Lúc đó phiến quân mới nổ súng. Đại úy Pertuis bị trúng đạn, tử thương. Lúc tàn trận đánh, ông hấp hối trên tay em, còn trăng trối những lời: "Tôi đã tin họ, tôi đã nhân đạo. Và tôi đã chết…” Từ dó em luôn luôn cảnh giác với người bản xứ…
Pierre nhớ dài.
- Bạo tàn chống lại bạo tàn. Đó là chiến tranh.
- Đúng. Em chỉ tin vào sức mạnh thôi.
Pierre ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nhận xét:
- Chú Julien và anh Philippe đều rất giống nhau ở một điểm: Cả hai người đều là những nhà thuộc địa chính cống. Cả hai người đều muốn giương cao lá cờ Pháp trên đất nước này.
- Còn điểm khác nhau?
- Khác nhau ư? Khác ở chỗ anh Phihppe đã tờ mờ thấy sức mạnh cũng có giới hạn của nó. Bằng chứng là anh chúng ta đã lấy bà Mùi. Anh ấy muốn hòa đồng với người bản xứ. Còn chú, chú vẫn tin vào sức mạnh.
- Thế còn anh thì sao?
- Tôi ư? Tôi là thứ chiên lạc loài. Tôi đến xứ này. Tôi ở lại đây. Sở dĩ thế vì tôi thấy nó đẹp. Tôi bị cuốn hút bởi cái đẹp mê hồn của xứ nhiệt đới. Và tôi muốn tôn vinh cái đẹp phương Đông ấy. Tôi không tin ở sức mạnh.
Julien cau mày:
- Cái đẹp nhiệt đới ư? Phương Đông kỳ ảo ư? Tôi nghi ngờ những điều đó. Ở đây có rất nhiều điều làm tôi ngờ vực. Trong cái chết của anh chúng ta, anh Philippe, anh không thấy có điều đáng nghi sao? Bà Mùi là con gái ông đồ Tiết. Mà gia đình ông đồ già này thì sao? Đồ Tiết đã bị chúng ta bắt đi tù về. Con cả là Chất, phiến quân chết ở xứ Mường. Con thứ hai là Phác hiện nay mất tích. Rồi đột nhiên lại thấy xuất hiện một anh chàng mặt mày quái gở tự xưng là cháu ông đồ. Anh không thấy gia đình này đáng nghi vấn hay sao? Trong óc em lúc này lởn vởn mấy câu hỏi: Liệu anh Philippe chết có phải do bệnh không? Liệu Hai Phác có thực sự mất tích không? Còn anh chàng Trịnh Huyền kia thực sự là ai?
- Ôi? Người em sắc sảo và đầy hoài nghi của tôi! Tại sao em không muốn sống yên ổn với những con người hiền lành ở đây? Tại sao em không thể mềm dẻo hơn với họ. Anh không là người đi chinh phục, nhưng anh nghĩ chỉ có thể chinh phục được kẻ khác bằng sự hiền hòa thôi…
Julien cười:
- Xin ông anh cứ yên tâm. Bàn luận là một việc. Còn thực hành lại là chuyện khác. Em đâu phải kẻ ngờ nghệch. Dù sao em cũng còn biết sử đụng đôi bàn tay nhung lụa nữa chứ.
Pierre lắc đầu:
- Ôi! Tôi đến khiếp đảm đôi bàn tay nhung lụa của chú.
Hai anh em cùng cả cười. Chính lúc ấy lý Cỏn và quản Láu bước vào. Julien hất hàm hỏi:
- Lúc này ở núi Mẫu họ đang làm gì?
- Dạ, họ đang ngồi đồng. - Quản Láu trả lời.
- Có mặt những ai? - Julien quay sang hỏi lý Cỏn.
- Bẩm quan lớn đủ mặt. Cả đồ Tiết, cả Trịnh Huyền, cả bà Mùi...
- Các ông để ý Trịnh Huyền ra sao?
- Bẩm nó đánh đàn rất giỏi. Ở đây chẳng có ai đánh đàn hay thế. Cả con bé Nhụ hát cũng rất hay. Đúng là giọng xứ Nam. Bẩm, ai cũng thấy họ đúng ở xứ Nam tới.
- Cứ hãy biết thế. Dù sao cũng phải điều tra thật kỹ. Không thể để lọt lưới. Ông nên biết, có mặt tôi ở đây, tôi quyết không cho một tên phiến loạn nào giả trang mò tới. Bây giờ, tôi cần đích thân lên đó xem sao. Thuyền bè chuẩn bị ra sao rồi?
Quản Láu thưa:
- Dạ, đã chuẩn bị sẵn sàng. Một chiếc ca nô đang chờ dưới bến.
Họ vội vàng đi ra bờ sông. Vì đi bằng thuyền máy nên chỉ mươi phút sau, họ đã tới Mẫu Sơn. Julien cùng đám bộ hạ thoăn thoắt leo lên đỉnh núi.Cuộc ngồi đồng đang đi tới đoạn kết. Trịnh Huyền đánh đàn bằng cảm hứng dạt dào nhất. Càng dạt dào hơn vì đến giữa buổi bắc ghế, ông chợt thấy sau gáy mình nóng bỏng như có lửa đất. Quay đầu lại, ông chợt nhận ra đôi mắt sáng của bà ba Váy đang như muốn nuốt từng âm thanh của tiếng đàn. Ông mỉm cười trong lòng. Ngón tay ông bỗng dẻo hơn, nhanh nhẹn hơn. Chúng như nhảy múa trên các phím đàn. Rồi những ngón tay ấy cũng bỗng trở nên tinh tế hơn. Chúng nhấn, chúng luyến, chúng rung rất uyển chuyển. Chúng tạo ra những sắc độ âm thanh rất mỏng manh, những cao độ thay đổi cao thấp rất tinh vi mà tưởng chừng chưa bao giờ ông có thể làm được. Có thể nói, một người sành sỏi nếu nhắm mắt, định thần, lắng tai nghe có thể thấy ở đó âm thanh của tiếng họa mi ríu rít, hoặc tiếng líu lo uyển chuyển của con khướu bách thanh bà chúa âm thanh của núi rừng.Đã hết các giá đồng. Ông cụ già râu bạc đã ra thỉnh chuông chuẩn bị làm lễ tạ. Theo đúng trình tự, ông đồ Tiết sắp sửa mang chiếc lồng son ra hiên, rồi mở cửa lồng phóng sinh, thả con chim gáy cho nó bay ra khu rừng giẻ trước cửa đền. Con chim rồi sẽ kết hợp với một con mái lẻ loi nào đó làm tổ định cư trên khu rừng giẻ, để sớm tối cất tiếng hót hầu hạ Thánh Mẫu. Và thế là ý nguyện của ông già được thỏa.Nhưng khi hồi chuông vừa dứt, bỗng có tiếng giày lộp cộp và tiếng huyên náo ngoài sân đền. Ông già đưa mắt nhìn ra. Julien và thuộc hạ đang tiến vào nội điện. Bằng cái giọng oang oang, lơ lớ, người Tây nói:
- Tôi... xin chào... tất cả bà con.
Giọng nói của ông ta cất lên làm cuộc hành lễ bỗng nhiên bị cắt ngang, dừng lại đột ngột. Mọi người ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Còn Julien, cái giọng lơ lớ của ông ta rất nghiêm khắc:
- Tôi… là quan Tây… chủ đồn điền… và quan trên giao cho chịu trách nhiệm... vùng này. Ai làm gì... phải xin… phép... ông lý... phải xin phép tôi. Các người ngồi đồng... đã xin phép... tôi chưa?
Bà Mùi đứng ra, rất mềm dẻo:
- Bẩm quan lớn Julien… Xưa nay, ngồi đồng chưa bao giờ phải xin phép. Hồi ông Philippe còn sống, chúng tôi hàng năm xuân thu nhị kỳ ngồi đồng, chưa bao giờ ông Philippe ngăn cấm.
- A... bà Mùi... Trước kia, ông Philippe là chồng bà làm chủ... Bà là ma-đam của ông ấy... Dĩ nhiên không phải xin phép. Còn bây giờ tôi là chủ đồn điền... Đối với tôi, cần phải xin phép...
Trả lời xong, Jullien có vẻ đắc ý. Hắn nhìn sang phải, nhìn sang trái ngó trong ngó ngoài ngôi đền. Hắn quan sát kỹ càng. Bỗng nhìn lên trên thấy đôi rắn trắng bằng vải quấn quanh hai chiếc dầm vượt. Mắt hắn dừng lại ở đôi rắn trắng. Hắn nhíu mày, giơ cái roi da mà lúc nào hắn cũng cầm trên tay chọc vào con rắn rồi nói:
- Sao lại... Thờ con rắn?
Bà Mùi tức giận quát to:
- Không được động tới "ngựa ngài".
- Hơ hơ hơ… Ngựa ngài! Rắn là tà thần!... Nào… ông lý Cỏn đâu… ông Láu đâu?...
Có tiếng dạ ran.
- Xin nhờ các ông… Tháo đôi rắn này xuống…
Lý Cỏn và quản Láu líu ríu:
- Thưa quan lớn… Xin đừng… Xin quan lớn tha cho…
- Sao?... Các ông không dám hả? Nếu thế, có ai dám bóc xuống… Ta sẽ thưởng… Không ai dám… hả? Vậy thì… Ta dám. Các ngươi mở mắt ra mà nhìn.
Julien nói xong, bắt hai tên lính công kênh hắn lên cho đủ độ cao, rồi lần lượt giật hai con rắn vải vứt xuống đất, trước mắt dân làng. Mọi người kinh ngạc, ồ lên vì hành vi báng bổ quá đáng, chưa từng bao giờ xảy ra. Tất cả đều như trời trồng, không biết phản ứng ra sao. Cô đồng, cung văn, các con nhang đệ tử đều giạt ra hai bên, ngơ ngác nhìn người Tây cao lớn đứng trên bệ gian chính điện đang như một hung thần hoành hành chẳng chút kiêng nể. Hắn cười và bảo mọi người:
- Chúng tôi đến đây... để khai sáng văn minh cho mọi người. Tôn giáo là tốt đẹp, như đạo Phật, đạo Thiên chúa… Mọi người đừng mê muội, mê tín quàng xiên… Thờ rắn là tà giáo… Đấy… Tôi dám làm... Mà có bao đâu…
Julien nhìn đôi rắn vải nằm lăn quay trên bệ hầu bóng. Đôi mắt hắn lại chợt nhìn thấy chiếc lồng chim phủ lụa đỏ đặt trong cái hang nơi có tranh thần Hắc hổ đang nhìn vào mặt hắn. Julien hỏi:
- Các người còn thờ phụng con vật… gì nữa đây?... Để ta xem nào.
Nói xong, hắn tiến lại gần chiếc lồng son. Bệ hầu bóng xây đến sát chân cái hương án cũng bằng gạch. Mặt hương án được đỡ bằng bốn chân gạch tạo ra ba vòm, mà vòm giữa là hang ông hắc hổ. Cái hang nửa tối nửa sáng, song nhìn vào ta vẫn thấy rõ hình ông hổ với đôi mắt sáng quắc. Đôi mắt ấy là hai miếng gương hình tròn, lúc nào cũng chăm chăm nhìn vào mặt ta nếu ta nhìn vào hang. Chiếc lồng chim đặt trước mặt ông hổ. Do vậy, khi Julien cúi xuống lồng son, đôi mắt ông hắc hổ liền dọi vào mặt hắn bằng những phản quang giận dữ. Julien hơi rùng mình, tuy nhiên hắn cố thản nhiên mỉm cười và dùng hai ngón tay khẽ nhón chiếc khăn lên. Khi tấm lụa điều được nhấc gương mặt Julien liền lộ vẻ kinh hãi... Hắn lùi lại, và lập tức vứt chiếc khăn lụa điều xuống đất rồi kêu lên:
- A... A…
Không cứ gì Julien tất cả những người có mặt đều khiếp hãi và sửng sốt. Một quang cảnh không ai tưởng tượng nổi hiện ra trước mắt mọi người. Con chim cu cườm đã biến mất. Và thay vào đó, một cái đầu rắn rất to nằm trong lồng. Nhìn kỹ, ta thấy một con rắn hổ mang bành màu chì nửa thân hình nằm bên ngoài, còn cái đầu mắc kẹt trong lồng. Con rắn rất to, loại hổ mang chúa. Không biết con rắn ở đâu chui ra. Trong suốt cuộc hầu bóng, không một ai nhìn thấy nó. Có thể dưới chân ông hắc hổ, dưới ban thờ thánh có hang rắn. Nó đánh hơi thấy mùi chim cu cườm nên bò ra chui đầu vào trong lồng. Nhưng bằng cách nào, đầu con rắn to thế kia lại lách chui vào lồng mà con chim không hề sợ hãi giãy giụa. Phải chăng con rắn đã thôi miên con chim rồi nuốt chửng. Nuốt đến cổ thì vướng nan lồng, con rắn không thể đẩy con chim trôi xuống bụng. Cái đầu rắn cộng thêm cái cổ đựng chim nên to đùng trông rất kỳ quái. Julien nhìn con rắn chưa kịp có phản ứng. Con rắn cũng nhìn thấy Juhen, lại phản ứng tức thì. Con vật to như cổ chân, dài như đòn gánh, màu chì tỏ ra tức giận vô cùng. Con rắn cất cao đầu, tranh mang, nâng cả chiếc lồng chim lên cao. Tuy đầu rắn vẫn nằm trong lồng, nhưng nó xòe to như bàn tay trông rất kỳ dị.
Juiien tái mặt, và đến lúc ấy hắn mới đưa tay ra sườn, rút súng ngắn nhưng tiếc thay hắn không mang theo. Con rắn đã đập mạnh cái lồng xuống bệ gạch. Cái lồng bẹp rúm, nan gãy tung, giải phóng cái đầu nguy hiểm của con mãng xà. Lúc này, con hổ mang chúa hoàn toàn tự do hoạt động. Nó ngóc đầu lên cao, lắc lư, cái lưỡi thò ra khỏi miệng nhấp nha nhấp nháy. Mọi người hét lên giạt ra. Có người vùng chạy ra sân. Song hình như con rắn không chú ý tới mọi người. Nó chỉ nhằm vào Julien, có lẽ nó biết chính ông ta mới là kẻ nguy hiểm với nó.
Con rắn trườn tới. Julien phải chạy vội ra giữa sân. Hắn có ý định đối địch với con rắn, nhưng nhìn ra sau lưng hắn thấy Láu và lý Cỏn đang ba chân bốn cũng chạy xuống núi. Hắn gọi đám thuộc hạ đem súng tới, nhưng những tên lính dõng cũng biến đâu mất cả. Có lẽ tất cả đang tìm xuống chỗ đậu ca nô. Julien thấy chỉ có một mình, cũng phải chạy theo, vừa chạy vừa kêu:
- Đứng lại! Tất cả đứng lại!
Hét vậy thôi, chứ thực ra chân người Tây cũng đang phăng phăng xuống núi. Đặt chân lên càng, hắn ra lệnh cho người lái: mổ máy?".
Con rắn khổng lồ màu chì, sau khi trườn ra sân, cũng biến đâu mất trong khu rừng giẻ rậm rịt. Đám đàn Cổ Đình, những người lớn, vẫn còn đứng trong ngôi đền Mẫu; mặt họ tái mét nhưng hể hả. Họ nói với nhau:
- “Ngựa ngài” hôm nay xuất trần gian, đuổi lão Mắt Mèo chạy bán sống bán chết.
Có người còn nói:
- Bà tổ cô hàng ngày vẫn nằm trên chiếc ghế xích đu bằng mây ở gian bên. Chính cụ tổ cô đã nuôi "Ngựa ngài". Ông hắc xà này chính là kẻ canh giữ đền Mẫu. Ông hắc xà có nhiều chỗ ở. Hang hốc trên núi rất nhiều. Còn cái hang dưới chân ông hắc hổ chỉ là một chốn ở và chỉ khi nào cần thiết như hôm nay, ông hắc xà mới đến trú ngụ ở đó.
Có người lại kể những điều khó tin:
- Bà tổ cô nuôi ông hắc xà bằng thuốc phiện nên bà cụ bảo gì ông cũng nghe. Hàng ngày, cụ tổ cô vẫn bôi thuốc phiện vào một đồng bạc trắng hoa xòe và để trước hang cho rắn ngậm. Mắt tôi trông thấy trong cái lồng chim hôm nay cũng có đồng bạc hoa xòe ấy. Chắc bà cụ đã biết trước những chuyện sẽ xảy ra nên đã đặt đồng bạc hoa xòe tẩm thuốc vào lồng chim từ trước buổi lễ...
Chẳng biết những lời xầm xì ấy có đúng không. Chỉ biết rằng đến mất chục năm sau, người dân Cổ Đình còn kể cho con cháu mình nghe câu chuyện huyền thoại về ông hắc xà đền Mẫu. Và mãi cho đến ngày sau cách mạng, huyền thoại ấy vẫn là một câu chuyện hấp dẫn mà bất cứ đứa trẻ nào ở làng Cổ Đình cũng muốn nghe. Đứa nào nghe cồng há hốc mồm vì sự lạ lùng.
Xem ti