Đất Trời- Chương 01 part 3

Sáng tinh mơ, đoàn người đã vượt cửa Phá Lũy trong tiếng quát tháo của bọn lính canh. Mặt trời đỏ lửng ló ra từ sau mỏm núi, cây cỏ xanh tươi như vừa tắm gội sau một đêm mưa. Phía bên này ải, đám thân nhân đưa tiễn những kẻ đi đày đã ngừng chân, thiểu não nhìn bóng người thấp thoáng trong những vòm cây cuối con dốc dẫn vào địa phận Quảng Tây. Thỉnh thoảng, ai đó khóc, khóc ấm ức. Tiếng nấc nén chặt từ cổ bật ra lạc lõng trong thinh không nghe giống như tiếng những hòn đá núi vô tình lăn chạm vào nhau trên triền dốc.

Khi chỉ còn cây xanh trong tầm nhìn, những kẻ ở lại thất thần ra về. Họ tránh nhìn nhau, chân trượt trên những hòn đá bám rêu dùng để lát con dốc từ ải Phá Lũy xuôi về nam. Họ vừa mất cha, mất chồng, mất con. Có thể họ vừa mất hết, kể cả chính họ, trong một đám tang chia hai. Ðám xuôi, đám ngược, không hương đèn, không khói nhang, không một vành khăn trắng, và không có tiếng nhị, tiếng kèn phường bát âm. Chỉ thế, im lặng. Sự im lặng trong tủi nhục nặng nề đến có là thánh là thần cũng không làm sao nhấc lên cho được.
Cuối cùng, rồi Trãi cũng phải lê bước đi về, lời cha văng vẳng trong đầu. Chàng bơ vơ bước những bước không hồn, tâm trí tê đi đến độ không còn cảm thấy một ràng buộc nào gắn chàng vào cái thế giới hữu hình hữu thể vây bọc. Mọi sự ruỗng ra biến hóa hư hư thực thực. Sáu năm qua là một chớp mắt như mơ. Con cá quâãy đuôi, bèo tấm tán loạn trên mặt ao dạt làm tám ngả theo hình đồ bát quái. Từ Thái Cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Rồi tứ tượng sinh bát quái. Và cứ thế, vũ trụ chồng chất theo vết cắt đôi của mọi thể, cả thực thể lẫn siêu thể, từ vật thể đến tâm thể. Trãi thụp xuống, tay ôm đầu, miệng lẩm bẩm ‘‘...từ tám đến mười sáu, rồi ba mươi hai, cho đến sáu mươi bốn. Những quẻ dịch này xếp đặt mọi biến đổi nhưng chúng đều chỉ có một điểm khởi đầu. Ðiểm đó là gì ? Ði ngược lại ắt biết. Nhưng làm thế nào ? Biết được thì hiểu lẽ thịnh suy, sinh diệt, nhược cường, thắng bại... Bằng không, Trãi cười nhạt, buột miệng nhắc đi lập lại - ...Bằng không thì chỉ có đi đày ! Vô minh là tù ngục... ’’.
Thình lình có tiếng người ‘‘ Ðâu phải chỉ có thế đâu. Không biết là tù ngục mà biết cũng là tù ngục đấy... ’’. Trãi hốt hoảng quay đầu lại. Một vị sư quần áo nâu sồng không biết ở đâu tới từ lúc nào chắp tay cúi đầu:
- A di dà Phật.
Cạnh vị sư, một đứa trẻ chỉ độ mười ba mười bốn giương mắt tò mò nhìn Trãi. Vị sư nhẹ nhàng :
- Thí chủ tha lỗi cho bần tăng lắm lời. Thấy thí chủ ngồi ôm đầu, lúc đầu cứ tưởng thí chủ bệnh thương, lại gần thì nghe thí chủ nói nên mới góp vào. Bần tăng là Ðạo Khiêm...
- Tôi là Nguyễn Trãi, ở Nhị Khê.
Vị sư reo lên :
- A, thí chủ hiệu là Ức Trai ? Thí chủ có biết Lý Tử Cấu không? Nhìn Trãi gật, vị sư tiếp - Thế thì ta quả có duyên, Tử Cấu là chỗ quen biết nhà chùa đã lâu, nhiều lần nhắc đến thí chủ. Bần tăng đi tiễn thầy là Ðạo Khải, lúc về thì nhặt được thằng bé này. Còn thí chủ chắc cũng đi giã từ quan Hàn Lâm ?
Trãi lẳng lặng gật đầu. Thằng bé chăm chăm ngó vào mặt Trãi, nhưng không nói năng gì, tay xách cái gậy dận xuống đất, miệng mím lại. Ðạo Khiêm lại chắp tay :
- A di dà Phật. Sinh ly còn nặng hơn là tử biệt. Bần tăng chia tay thầy, người cho bốn câu kệ, xin đọc hầu thí chủ:
Sống ở kề, gió cả
Chết trôi xa, sông sâu
Gió sông quanh ta đó
Ði, ở có sao đâu !
- A di dà Phật. Trãi ngập ngừng - Xin cảm tạ thầy có lòng khai sáng cho.
Ba người lững thững kẻ trước người sau xuống đến chân núi. Dưới ánh nắng hừng hực, bóng họ trên đường hợp lại, rồi tan ra, cứ thế chập chùng thể như trói buộc lẫn nhau vào một thứ qui luật càn khôn bất di bất dịch.
*
Chuyện vãn, Trãi mới rõ Ðạo Khiêm cũng đã từng là sĩ tử vào kỳ thi cuối cùng kỷ nhà Trần, đời Thuận Tông. Ði thi cùng khoa với Vũ Mộng Nguyên, Khiêm chính là kẻ đã bẻ bút đập nghiên, không đợi phép quan trường, bỏ ra rồi đi thẳng lại chùa Bảo Thiên xin xuống tóc. Từ đó, ai cũng xì xào đáng lẽ ra Khiêm mới là kẻ đỗ đầu, và thế chẳng chóng thì chày cũng rồi chiếm chỗ tôn nghiêm nhất trong chốn quan quyền. Nghe được, Khiêm chỉ cười rồi thủng thỉnh niệm Phật.
Vào chính Ngọ, họ xuống đến chân núi. Cả bọn uể oải tìm bóng cây, giở lương khô ra ăn. Chợt Ðạo Khiêm hỏi Trãi:
- Thí chủ định về đâu ?
- Tôi tính về Nhị Khê, rồi sau thì chắc vào Hoan châu. Nhưng cũng chẳng vội gì ! Trãi cười, giọng bùi ngùi - dục tốc tất bất đạt...
Ðạo Khiêm hỏi, Trãi chậm rãi kể qua câu chuyện trước khi từ biệt cha là Phi Khanh. Ðạo Khiêm im lặng nghe. Bên cạnh hai người, thằng bé đi theo chèo queo nằm, mắt hướng về phía rừng, miệng ngáy phì phò chừng như ngủ đã say. Khi Trãi kể đến những tiếng hú đêm qua và đám cháu chắt họ Hồ bị Liễu Thăng sai đem thiến đi cả vì hoàng tôn Hồ Ngũ Lang lạc đâu mất thì thằng bé thình lình bật dậy. Nó ngồi lên, ngơ ngác nhìn, nhưng rồi lại nằm úp mặt vào tay, co quắp như một đống giẻ. Ðạo Khiêm bật miệng kêu ‘‘A di dà Phật ’’.
Nhắm mắt, Ðạo Khiêm tay lần tràng hạt, mồm mấp máy tụng kinh. Một lát sau, Ðạo Khiêm nhìn Trãi trầm ngâm :
- Sau này mời thí chủ ghé thăm chùa Thiện Chính ở Trường Yên ít bữa. Chùa thuận lối vào Hoan, Diễn hẳn cũng tiện đường. Bần tăng tin là ta còn cái duyên hạnh ngộ.
Trãi ầm ừ cám ơn, rồi ngả mình dựa vào thân cây. Tay che lên trán, Trãi chợp mắt lúc nào không biết. Giấc ngủ mệt đầy mộng mị kéo một mớ hoang tưởng rối vào nhau tựa mớ bòng bong, lúc hư lúc thực, lúc ẩn lúc hiện, lúc hiền hòa lúc đe dọa. Ánh sáng qua vòm cây mơ hồ hắt xuống mặt đất những vệt nắng lỗ chỗ như mụn ghẻ căng mủ, thứ mủ vàng khè cứ lớn dần rồi toang vỡ chảy vào Cửa Nam Thăng Long thành. Trãi quay nhìn, chỉ thấy Phi Bảo đang tất tưởi hạ xuống chiếc thuyền nan. Cha đâu ? Các em ở chỗ nào ? Bảo lắc đầu, lầm lì, rồi hỏi, anh có thấy mái chèo không ? Trãi cuống lên, không, không. Chèo để đâu ? Dung dịch vàng khè đặc sệt tràn lên trên mặt đê. Bảo ơi, thấy chưa ? Chưa. Thôi, chạy ngược sang cửa Ðông, chỗ đó đất cao. Nào, Bảo, chạy thôi. Ai cho bay chạy ! Hoàng Phúc ở đâu đưa tay ra chặn, nhếch miệng cười hiểm độc. Bay đợi đấy, Chinh di Ðại Tướng Quân sắp đến. Phúc chưa dứt lời thì Trương Phụ đứng trên mũi một chiếc thuyền bằng đồng lướt tới. Phụ quát, bay có muốn lên thuyền không ? Ðúng lúc đó, Phi Khanh từ xa thét, đừng, đừng, nó lừa mình lên là giết ngay, các con chạy, chạy nhanh lên. Bảo lắc đầu, cười sằng sặc. Phi Khanh giơ hai tay lên trời, hai cánh tay khẳng khiu, cứ dài ra, dài như thân rắn. Hai con rắn đầu cong lên. Phi Khanh lại thét, chạy, chạy đi, đợi cha làm gì hở ? Trương Phụ ha hả cười, chạy đằng trời à, trời ta cũng đã chăng lưới rồi. Lên thuyền ta cho sống. Tên hoạn lợn họ Ðặng giơ bộ dao kéo lên. Hoàng Phúc bảo, thằng này có nghề, nó thiến vừa gọn vừa ngọt, soẹt một đường là xong. Hai con rắn mắt như hai cục bi ve nhay nháy ngóc quay xuống hờm ngay đỉnh đầu Phi Khanh, lưỡi thè ra thụt vào. Trãi tuyệt vọng, chỉ biết kêu, Cha ơi, rắn, rắn... Nhưng nỗi sợ khiến tứ chi tê liệt, có muốn Trãi cũng chẳng nhúc nhích nổi. Trãi đợi cái chết của cha như điều không cứu vãn được. Cố vùng dậy, Trãi lại kêu, vừa kêu vừa khóc. Rắn ở đâu bò ra nhung nhúc luồn lên luồn xuống cái dung dịch vàng khè bốc mùi tởm lợm đang ứ lên khắp mọi nơi. Mạng ta đến đây là tuyệt chăng ? Bốp, một tiếng chát chúa, ngay bên cạnh tai. Rồi bốp bốp. Thêm hai tiếng. Ai đó lay mạnh kéo tay Trãi. Mở mắt, Trãi thấy thằng bé. Tay cầm chiếc gậy, nó bảo, này, nhìn này. Bên cạnh Trãi một con rắn bị đánh dập đầu. Trãi vùng ngồi lên. Ðó là một con rắn thật chứ không phải những con rắn trong cơn ác mộng vừa qua. Con rắn dài đến hai thước, mình nâu xậm có vân hoa nửa vàng nửa đỏ, nằm sõng soài trong đám cỏ rừng xém cháy dưới nắng hạ.
Nhìn thằng bé đang lấy cây gậy chọc vào mình con rắn, Trãi hiểu là nó vừa cứu mạng mình. Thằng bé buột miệng :
- May mà thấy kịp.
Trãi vỗ nhè nhẹ lên vai nó ra dấu cám ơn :
- Tên em là gì ?
- Hà Trí Viễn.
Nhìn quanh không thấy Ðạo Khiêm, Trãi hỏi :