Đất Trời- Chương 07 part 1

Chương 7: NGAI VUA

Nắng vàng tươi hắt vào những mái chùa cong rải rác chung quanh tháp Báo Thiên cao vút. Nhô ra khỏi những ngọn cây bàng, đỉnh tháp thếp vàng chóe sáng uy hiển, lung linh thứ quyền năng chập chờn như vừa răn đe vừa bảo bọc đám hàng dân lũ lượt đi lễ chùa vào ngày đầu một năm mới. Khác với mọi năm qua, không còn ai tóc tết bím, miệng xì xồ tiếng Quảng, tiếng Tiều. Ðàn bà nay lại mặc áo tứ thân, giải đằng trước buộc túm lại lẳng lơ thả xuống cái trễ nải làm dáng của những ngày lễ hội. Ðám trẻ con tóc trái đào tíu tít cười chạy đuổi nhau, tiếng vải thô sột soạt cọ xát như đến quần áo cũng tranh nhau khoe mới.
Chùa chật ních những người là người. Họ xếp hàng trên thềm, miệng lầm rầm tụng niệm theo một vị sư bác ngồi trên bệ. Sư bác mắt nhắm nghiền, một tay nhịp mõ, tay kia thỉnh thoảng lại đánh nhẹ vào chiếc chuông treo bên. Tiếng chuông ngân nga vươn lên lượn bắt ánh nắng lẻn qua những chiếc then gỗ mun đan dọc mảnh vách lửng rồi tan vào những lạt khói xanh biếc thơm ngát trầm hương.
Khuất sau một thân bưởi già đến trăm năm ở tít cuối sân chùa là nơi sư cụ tiếp khách. Sư trụ trì là Ðạo Khả, kẻ cách đây hai mươi năm đã xuống tóc cho hàng ngàn người tránh không muốn tết bím theo lệnh Trương Phụ và Hoàng Phúc dưới thời thuộc Minh. Vốn là đệ tử đời thứ ba của sư Pháp Loa, Khả họ Phạm, đã từng theo chú là Phạm sư Ôn khởi quân từ chùa Thiên Nhiên đời Thuận Tông nhà Trần. Ðánh vào chiếm kinh sư được ba ngày thì bỗng nhiên Khả ngộ ra chữ Tâm nhà Phật, liền trốn vào Báo Thiên và xin qui y đến nay đã xấp xỉ năm mươi năm. Bây giờ, Khả đã yếu, cho gọi sư đệ là Ðạo Khiêm từ chùa Thiệân Chính về. Cả hai đang đợi Nguyễn Trãi, hiện là kẻ đang xếp đặt lại bộ máy triều chính, đã hẹn đến bàn một việc liên quan đến mai hậu của Phật giáo. Thần thái an nhiên, tự thân Khả tỏa ra một niềm vui sâu lắng. Nhếch cặp lông mày rủ xuống bạc thếch trên cặp mắt nay đã lòa, Khả từ tốn nhấp một ngụm nước, hồi tưởng lại lần gặp Trãi cách đây mười lăm năm có lẻ. Thuở ấy, khi Nguyễn Trãi vào chùa xin xuống tóc, Khả đùa ‘‘ Ðệ tử danh gia nay qui y ? ’’. Trãi dí dỏm ‘‘ Chỉ xin thầy cho nhát kéo là xong ? Cửa Phật đâu hẹp hòi gì ...’’. Khả bật cười ‘‘ ...thế còn cái đạo quân tử ? ’’. Trãi đáp ‘‘ ...đạo có khi biến, có khi thường. Trãi tự tay xuống tóc thì ai biết ? Nhưng thế mới là trí trá. Nay đến đây, mô Phật, là tự tâm thành, tin vào lượng từ bi độ thế... ’’. Khả mỉm cười, nhỏ nhẹ ‘‘ ...để ta tặng thầy một vài câu ngô nghê nhé ’’. Nói xong, Khả khép mắt lại. Lát sau, tay thỉnh một tiếng chuông, Khả chậm rãi:
Mặt trăng mọc giữa ngọ
Không thấy nhưng vẫn còn
Mở mắt nhìn Trãi, Khả hỏi ‘‘ Rồi sao nữa ? Thí chủ tiếp ta đi chứ ’’. Trãi vái Khả, xin phép rồi đọc :
Thuận lòng sông nước chảy
Nguồn mãi tự đỉnh non...
Kể cho Ðạo Khiêm đến đấy, Khả vẩn vơ nói như nói một mình ‘‘... hai chữ non sông với Trãi nặng thật ! Nặng đến độ Trãi quên mất những cái không thấy tít trên trời cao ! ’’. Lấy cây quạt đập khẽ vào tay Khiêm, Khả lẩn thẩn hỏi :
- Ðệ thấy sao ? Hai câu kệ đầu bảo tu đi. Hai câu sau thì đáp rằng không, phải nhập thế bởi non sông còn đó. Này, có thể nào vừa nhập thế lại vừa tu được không nhỉ ?
Khiêm không trả lời sư huynh mình ngay, lặng lẽ chắp tay, nhớ lại buổi tối ngắm trăng trên sân chùa Thiện Chính. Ngẫm đến cách vận trí đoạt thành chứ không dụng lực trên chiến trường từ Trường Yên vào đến hai châu Hoan Ái, Khiêm hiểu rằng Trãi đã tránh được chuyện máu đổ xương rơi. Ðúng như lời mình dặn Trãi là khi nghĩa quân mạnh, lúc ấy mới là lúc sách lược Tâm công độ được người. Khiêm kể lại cho Ðạo Khả cái quan hệ giữa Trãi và mình, từ ngày tình cờ gặp nhau trên con đường từ ải Phá Lũy về Ðông Ðô cho đến cái xẩy chân của Trãi nơi bờ vực cạnh chùa. Giọng có chút bùi ngùi, Khiêm nhỏ nhẹ :
- Cao quí thay những kẻ lấm tay nhập thế mà vẫn giữ được tâm sạch chốn tu hành...
Khả chép miệng :
- Cao quí thay, mà cũng tội nghiệp thay...
Ngẫm nghĩ, Khả tiếp, giọng khoan thai :
- Khi gặp, ta sẽ đọc tặng cho Trãi hai câu kệ xem thế nào. Ngày xưa, khi Trãi đến Báo Thiên xin ta xuống tóc, ta đùa ‘‘ ...thế là thí chủ quét bụi vào sân chùa rồi ’’ . Trãi đáp làm sao, sư đệ đoán thử xem. ?
Ðạo Khiêm cười mỉm :
- Cứ như đệ biết về Trãi, thì Trãi sẽ thưa là sân chùa có chút bụi mà thế gian sạch hơn, chẳng phải là lượng Phật sao ?
- Không ! Trãi ngậm ngùi nhìn ta một lát rồi thốt : bụi trần mà nhà chùa không nhận thì quét về chốn nao. Ta vẫn nghĩ Trãi là kẻ về mặt trí thì chọn Danh giáo, tâm là tâm Phật và chất, lại là cái chất Lão đạo phóng khoáng. Cũng vì là Trãi mà cái việc Triều đình đòi, ta ưng. Tăng lữ dưới ngũ tuần thi để lọc ra quả thật cũng không sao. Nhân dịp, ta rửa sạch sân chùa... Gạn lọc cũng có thể là cái duyên may !
Ðạo Khiêm cúi đầu lĩnh ý. Khả ung dung tiếp :
- Chẳng còn bao lâu, đệ thay ta trụ trì Báo Thiên và hoằng hóa Phập pháp. Ta chỉ căn dặn một điều, là lấy lòng người làm gốc, coi quyền thế vinh hoa là ngọn.
Quơ tay lấy chén nước, Ðạo Khả nhắp rồi tiếp :
- Ừ, cứ thỉnh thoảng ra mà xem bài văn bia của Lê Quát ở chùa Thiên Phúc : ‘‘ Sao không mệnh lệnh mà người ta vẫn theo, không thề thốt mà người ta vẫn tin. Chỗ nào có người ở, tất có chùa Phật...’’.
Nói cho cùng, nơi đâu có người, chỗ đó tất có Phật !
*
Mồng hai Tết, Trãi về đến Nhị Khê khi mặt trời đứng bóng. Vài tháng sau khi quân Minh rút đi, Ðào Nương đã cho bốc mộ Vàng Anh rồi cùng với đám con gái quay lại quê chồng. Từ đống tro gạch điêu tàn, họ tay không dựng lại cái cơ đồ chẳng còn gì ngoài hai mẫu đất và khu mộ tổ nằm trên sườn đồi. Mẹ con họ Ðào định năm nay lên Xương Giang tìm mả Phi Bảo. Ðào Nương xót xa nói với các con ‘‘ Ðể cha về đây nằm với các cụ thì mới yên lòng được ! ’’.
Dân làng phiêu tán nay lục đục hồi hương. Nhị Khê hồi sinh trong tiếng nói cười rôm rả buổi đầu xuân, xác pháo hồng rắc trên sân, ngoài cửa như dấu ấn những niềm vui mới tìm lại. Biết Trãi về, dân kéo nhau đến chào hỏi khiến chỉ đến tối Trãi mới quây quần với đám cháu và cô em dâu. Ðào Nương già sọm xuống, mặt xương xương vất vả nhưng mắt vẫn ánh lên nét cương nghị thuở nào. Nhìn các cháu, bao nhiêu hình ảnh nơi trại chè bỗng dưng chập chờn đâu đây. Bờ sông Lam đá trắng, Ðào lão móm mém mắt lòa, tay quờ quạng. Vàng Anh giọng ngọng nghịu líu lo cất tiếng hát. Ngơ ngẩn đắm hồn vào quá khứ, Trãi giật mình nghe Ðào Nương nhắc :
- Mai cả nhà lên cúng các cụ. Em đợi bác về để cùng đi tảo mộ. Ðã định chiều nay nhưng dân làng họ đến...
Trãi nhìn Ðào Nương, mắt biết ơn, miệng nhỏ nhẹ :
- Thím sửa soạn đi sớm nhé. Trưa mai tôi lại phải về Ðông Kinh rồi !
- Sao bác không ở dăm ngày ? Tết nhất mà...
Ðếm đốt ngón tay, đã mười lăm năm nay Trãi mới về Nhị Khê vào dịp Tết. Lần cuối, còn Hà Trí Viễn ở đây, là năm chàng bỏ vào Mường Thôi tìm Trần Nguyên Hãn sau khi Viễn ám toán Thượng thư Hoàng Phúc. Mười lăm năm, như một chớp mắt. Thù nhà đã trả. Thế còn nợ nước. Dẫu sách Tâm công đã cho phép giữ sức dân nhưng đuổi giặc xong đâu đã là xong. Còn phải xây dựng lại một xã hội đang ngơ ngác trước những đổi thay. Kỷ cương phải mới. Nhưng mới thế nào ? Và nhất là với một guồng máy triều chính non nớt, võ quan nhiều, văn quan lưa thưa. Quyền lực tập trung vào một tập hợp vừa có tính gia tộc của tân hoàng đế họ Lê, vừa có tính địa phương của miền Thanh Hóa, đất ‘‘ tắm gội ’’ mưa móc mệnh Trời. Từ đó, sự phân hóa văn - võ và Kinh - Mường ngày càng rõ nét. Trãi có tâu với Lê Lợi, rằng thời bình là thời văn trị, phải chọn giữa giá gươm và cái tháp bút. Lợi hỏi, ông có bao giờ thấy cái ghế hai chân chưa ? Trãi đang còn phân vân, Lợi tiếp, có giá gươm và tháp bút mới có hai. Còn cái ngai vua. Chòm lông trên cái nốt ruồi bên má trái Lợi lại giật lên. Nhìn vào mắt Trãi, Lợi thủng thỉnh, Quan Lại bộ thượng thư trách nhiệm việc tổ chức triều chính đừng quên cái chân ghế thứ ba nhé !
Ðào Nương không thấy Trãi trả lời, sai con bé lớn trong nhà gọi là Vành Khuyên :
- Con để cái trái trong cho bác nghỉ vài hôm !
Trãi giật mình, giơ tay cản :
- Thím ạ, tôi có hẹn... Việc công cứ như con mọn, thím cho tôi bận sau. Sáng sớm mai lên khu mộ tổ, đến khoảng giờ Thìn thì tôi phải về Kinh.
Nhìn các cháu, Trãi đổi giọng làm vui :
- Còn các cô này, tiểu thư cả rồi, có còn hát hò gì nữa không ?
Nghe ông bác giục, các cô lên dây đàn và lấy giọng. Thế là Trãi lại được nghe những điệu hát ví hát giặm, lòng chạnh tưởng đến Vàng Anh và lời hứa trên mộ cháu cạnh dòng sông Lam. Chàng ngậm ngùi, cả đêm trăn trở.
Tờ mờ sáng hôm sau, cả nhà họ Nguyễn lên khu mộ tổ ở sườn đồi. Trãi ngạc nhiên khi thấy nơi rặng đề đã bị Hoàng Phúc khai quật nay là một dãy cây con. Hỏi ra, Ðào Nương kể :
- Năm ngoái chú Viễn chú ấy về thuê người phát cỏ trồng cây. Rồi chú ấy còn cho khơi lại cái lạch ở dưới chân đồi. Em có hỏi nhưng chú ấy hềnh hệch cười rồi bảo trước khu mộ thế nào thì sau cứ thế vậy, có tốn kém gì đâu...
Mỉm cười, Trãi nhớ người nghĩa đệ đã bặt tin, dịu dàng hỏi :
- Viễn có nói nay ở đâu không ?
- Chú ấy chỉ bảo ở Nghệ An, nhưng không nói rõ là nơi nào. Giọng Ðào Nương lên một thanh âm như hát, tiếp - ...rồi chú ấy khoe là năm vừa rồi lại đẻ thêm hai đứa, nhưng lần này toàn là con gái cả...
Trãi bật cười, vui miệng :
- Khiếp, con đông mà đẻ cứ như dươi đẻ...
Sự sống mỗi con người, Trãi nghĩ thầm, phải chăng được tái tạo kinh qua quá trình truyền giống đến đời sau. Ðó là phép mầu kéo cái hữu hạn đến vô cùng, đẩy niềm tuyệt vọng đến hy vọng, xô nỗi đớn đau hôm nay đến khả năng hạnh phúc một ngày mai. Mọi dở dang hiện tại đều có thể khu toàn nếu có một lớp người chia chung những hoài bão để tiếp nối tương lai. Ðá tảng làm nền là những hoài bão đó. Như vậy, thời gian nhất thiết không cứ hủy diệt một xã hội, mặc dầu bất cứ mỗi cá nhân ai cuối cùng rồi cũng đến cái giới hạn của sự sống cho riêng mình.
Trãi đưa mắt nhìn ra sông Nhị xa xa. Nắng mới rạng rỡ trải vàng những cánh đồng đầu vụ Ðông - Xuân chạy muốt mắt. Dưới chân đồi, lũ mục đồng vắt vẻo trên mình trâu gọi nhau ơi ới. Tâm hồn Trãi trải rộng đến chân trời, lâng lâng một niềm hân hoan chia chung với vạn vật. Chàng đưa mắt nhìn lũ cháu gái đang nhổ cỏ dại dưới chân những ngôi mộ nhà họ Nguyễn, lòng rưng rưng một nỗi thương cảm. Có tiếng Ðào Nương gọi. Mọi người lục tục kéo đến.
Trãi quì trước mộ tổ, ngậm ngùi tưởng đến thân xác cha chàng còn chôn ở Kim Lăng. Chàng thầm khấn, hứa sẽ bốc mộ cha về Nhị Khê, lòng đau như cắt. Ðến giờ hóa vàng, Trãi đến ngồi cạnh mộ Vàng Anh. Ngôi mộ nhỏ xíu nằm trong một góc, phía trước có độc một bát hương, nhô lên mặt đất mịn màng. Chàng nghe văng vẳng tiếng Vàng Anh hát. Rồi Vàng Anh nói, Vàng Anh cười. Chàng lại thấy dòng sông Lam lờ lững, mỏm đồi chè uốn lượn, những chiếc xe kéo thồ hàng trăm bao chè sấy khô lọc cọc lên xuống con dốc dẫn đến bến đò.
Tay vuốt ve ngôi mộ, Trãi nhắm mắt hồi tưởng lại cái đêm chàng đã thủ thỉ với Vàng Anh đã lạnh cứng dưới ba tấc đất. Chính cái chết thê thảm của Vàng Anh đã là động lực cho chàng chống lại sự hủy diệt mù lòa lẫn nhau giữa con người với con người. Ðộng lực đó tạo ra cơ sở cho sách ‘‘ mang đạo nghĩa chống hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo ’’. Ðiều này, chàng đã thực hiện được giữa một đám võ quan, bản chất thực ra là hung tàn và cường bạo. Nhưng còn lời hứa sẽ viết lại tập Nam Dao chí đã bị cháy khi quân Minh đến tập kích trại chè tám năm về trước ? Thả hồn vào những làn khói xanh lơ lửng đầu ba cây hương đang cháy, chàng lại khấn ‘‘ ...Vàng Anh ơi, bác không quên đâu. Cho bác thêm một ít thời gian ... ’’.
*
Cho phu kiệu và đám lính về, Trãi len khỏi đám người chen chúc xì xụp lễ lậy đến nói nhỏ vào tai một vị sư. Lát sau, một chú tiểu đến, gập đầu chào, làm hiệu cho Trãi theo chân. Men lối sau, cả hai bước ngang sân chùa vào mé trong khi trời bắt đầu chạng vạng.
Nghiêng người lách vào cánh cửa mở hờ, Trãi lờ mờ sống lại cái cảm giác chàng tưởng đã quên. Mùi hương đèn, tiếng chuông ngân, và nhất là nhịp ê a tụng niệm đưa Trãi quay về thuở chàng viếng chùa một sáng tân niên hai mươi năm về trước. Ðạo Khiêm đứng dậy, tươi cười :
- Nam mô a di đà Phật, cố nhân đến được, thật là phúc hạnh cho chùa...
Trãi vội đến nắm tay Khiêm, miệng nói :
- Ða tạ ! Ðể hai vị cao tăng phải chờ phải đợi, tại hạ quả áy náy !
Thấy Ðạo Khả đang lẩy bẩy chống tay định đứng lên, Trãi vội để tay lên vai, nhẹ nhàng thưa :
- Xin thầy cứ ngồi... Ðể Trãi này vái ba vái, nhớ thuở xưa thầy cho xuống tóc...
Bật cười, Khả đáp :
- Không dám... Thuở ấy thí chủ xuống tóc là để xua bụi vào chùa cho sạch nhân gian. Hà hà... Nay mắt bần tăng lòa, nhân ảnh hóa ra mộng mị, nhưng cũng thấy đây là Quan Lại bộ Thượng Thư, kiêm Nhập Nội Hành Khiển, chứ có phải là anh đồ cứng cổ khi xưa đâu...
- Lạy thầy ! Thầy xử như Trãi thuở xưa thì Trãi xin ở. Thầy coi Trãi như quan thì Trãi phải mời thầy đến dinh Bộ Lại...
- Gớm, khéo thế đấy ! Thôi nhé... Ở lại thì ở. Nhưng muốn ở thì phải bồi tiếp hai câu kệ này :
Tâm, hạt bụi trong ngần
Thân, bùn vầy nước khuấy.
Trãi thót bụng. Tâm và thân ta, vị sư không nhìn mà thấy. Mới sáng hôm qua, khi cùng các quan văn võ vào chầu, Trãi giật mình trước lễ vật của đám quyền thần từ hàng tam phẩm trở lên. Nào là ngà voi, sừng tê, ngọc phí thủy, vàng trắng... xếp từng mâm, trên có đề tên của kẻ dâng quà Tết cho vị chủ tể của cái triều chính mới được non tám tháng. Lê Lợi hể hả, tay vê chùm lông trên má, gật gù nghe Trịnh Hoành Bá thì thào kê khai. Ðến tên Trãi, lễ vật độc có một bài thơ. Lợi ngạc nhiên, lấy tay gạt qua một bên, mắt lạnh lùng quét nhìn Trãi như một lưỡi kiếm sắc. Ðạo quân tử, trọng thanh bần. Làm quan mà không chèn ép cướp bóc dân thì lấy đâu ra ngọc ngà để cung hiến...
Chờ không thấy Trãi đáp, Ðạo Khả hấp háy :
- Thế nào ? Muốn ở hay về ?
Trãi nuốt nước bọt, giọng ngậm ngùi :
- Thầy xá lỗi cho, Trãi đến quấy chuyện trần tục, tâm thân dẫu muốn cũng chẳng thể đặt ra ngoài thế thời...
Nhìn lên bức tượng Thích Ca, Trãi cảm thấy một sự hụt hẫng mênh mông trong lòng. Chàng gượng cười, vòng tay :
- Bạch thầy, ngày Xuân viếng chùa và chúc Tết hai vị. Xin thứ cho Trãi cái chuyện thế, thời đáng ra không được nói nơi cửa Phật...
Cười ha hả, Khả lắc tay :
- Chót nói rồi, thì nói một lần cho hết ! Lão nay đã gần cõi Phật lắm rồi, sau này Ðạo Khiêm là kẻ truyền thừa, sẽ tiếp tục việc chấn chỉnh và hoằng hóa Phật pháp. Anh em lão đều đồng tâm cái việc để cho người nhà chùa đi thi tăng đạo. Bọn khoác áo nâu sồng mà làm bùa làm ngải, reo rắc dị đoan, không phải là phật tử. Ai chỉ núp áo cà sa thì đuổi về, quét cho sạch sân chùa là phải.
Ðạo Khiêm chắp tay :
- Nam mô ai di đà Phật ! Nhưng thi thế nào ? Và bao giờ ?
Trãi ngẫm nghĩ :
- Về ý nghĩa kinh Phật, thì xin hai vị chủ trì việc sát hạch cho. Còn bao giờ, tại hạ định là tháng sáu năm nay để sư ở mọi nơi có thể về kinh dự thi !
Ðạo Khả nhẹ nhàng :
- Kinh nghĩa mênh mông, nhưng rồi rút về chỉ một chữ ngộ. Thế thì thi thế nào ? Mà thôi, nội nhật nay mai lão qui cửa Phật, nên chuyện sát hạnh thí chủ cứ bàn bạc với Ðạo Khiêm...
Nói xong, Khả lần tràng. Tâm thần lại lắng vào an bình, Khả như không còn biết đến thế gian.
Trãi chia tay, bụng ngạc nhiên thấy nhà chùa dễ dàng thuận theo Triều đình mà không đôi co tới lui gì cả. Ðến tối mịt, Khả mới lại cho gọi Ðạo Khiêm vào bảo :
- Những điều Trãi ngày nay muốn bàn thì đi một bước xa hơn so với Trương Hán Siêu và Lê Quát thời Trần, mong giới hạn số tăng đồ nhằm tập trung quyền lực. Có lẽ vì Trãi tưởng trong triều không ai cản, nắm cái thế muốn làm gì cũng được. Nhưng Trãi nhầm đấy. Còn dân nữa, đâu phải chỉ triều đình là xong. Mặt kkác, bọn võ tướng gốc Mường Một, Mường Thôi, rồi đám cung nhân đều đến xì xụp lạy Phật để xin bùa yêu, ngải yểm. Chúng sau này sẽ là cái mầm chống lại biện pháp của đám Danh gia...
Ngừng một lát, Khả thì thầm :
- Mà thôi, chuyện đó xem chừng còn nhiều đổi thay. Ðệ cứ nhớ lấy lời ta, sau này dặn lại Trãi. Khó mà vừa nhập thế vừa tu hành được. Nhắc tăng đồ lấy chữ nhẫn làm phương châm, chữ xả làm cứu cánh.
Thình lình nắm tay Khiêm, giọng bình thản như chẳng có chuyện gì, Khả nói :
- Sinh là ký. Ta sắp qui rồi !
Khi thả tay ra, miệng Khả còn nhếch lên cười, nhưng người đã bắt đầu lạnh. Lúc đó là đầu giờ Tí ngày ba tháng giêng Kỷ Dậu, Thuận Thiên năm thứ hai, kỷ nhà Lê. Phật tử ở Ðông Kinh đồn đãi là đúng lúc Ðạo Khả viên tịch, có một trận mưa sao rơi trên đỉnh tháp Báo Thiên rồi theo sông Tô Lịch trôi ra sông Nhị. Vì thế, sông Nhị sẽ nẩy vàng ròng.
*
Sau khi Lê Lợi lên ngôi và cho xây Ðiện Vạn Thọ, những kẻ đã cùng vua hội thề ở Lũng Nhai trở thành hoàng thân quốc thích đều thi nhau cho con cháu trở thành hoạn quan và lính kín. Hoạn, được ở ngay trong cung vua. Còn lính kín, do Nội Mật viện chỉ huy, có quyền cáo bẩm về mọi việc và về mọi người trong bộ máy triều chính. Phạm Văn Xảo trước là Khu Mật Trì Sự chỉ lo việc quân báo thời chiến nay thành Thái bảo, nhân vật thứ ba. Kể thêm hai nhân vật, thứ nhất là Hữu Tướng quốc Tư Tề và thứ nhì là Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn, thì cả ba dẫu thứ bậc cao nhưng vẫn chưa có quyền lực gì nhất định. Cách tiến thân là trực tiếp tâu bẩm với Lợi để lập công.
Họ Ðinh ở Nông Cống, là con cháu hổ tướng Ðinh Lễ đã tử trận. Em Lễ là Thiếu úy Ðinh Liệt tiến cử được Ðinh Hối làm Thái Giám trực tiếp trông coi đám hoạn quan. Về phần Nội Mật viện, sự vụ gay go chồng tréo hơn. Họ hàng Nguyễn Xí đẩy được Nguyễn Thúc Huệ vào. Họ Trịnh, dưới ảnh hưởng của Tư Ðồ Trịnh Khả, đưa Trịnh Hoành Bá ra để cân bằng lực lượng với họ Nguyễn. Bá khôn ngoan đứng chung phe với bọn cháu Lợi là Lê Quốc Khí và Lê Ðức Dư, mỗi lúc ảnh hưởng một lớn. Nhưng quyền lực trong hậu cung xưa nay là cái thế cài răng lược có tính cách trao đổi gả bán.
Rắp tâm cho người len vào đám hoạn quan, Bá thỏa thuận nhận cho phe họ Ðinh là Ðinh Bản vào Nội Mật viện. Ngược lại Thái giám Ðinh Hối phải để người của Bá là Lương Ðăng vào hàng ngũ hoạn quan. Ðăng xưa đã bị Hoàng Phúc, Thượng thư nhà Minh, truy lùng sau khi Ðào nhi rút trâm đâm trong buổi tấu nhạc cho Trương Phụ cách đây mười lăm năm. Từ đó, Ðăng trốn vào châu Phục Lễ, rồi theo họ Ðèo nổi quân chống lại quân Minh. Khi Lê Lợi cho lệnh tìm bắt đám thổ quan cộng tác với nhà Minh thì chú Ðăng là Lương Nhữ Hốt trốn vào một ngôi chùa miệt Vụ Bản. Ðăng biết, đến tìm chú, khóc đòi đưa chú trốn vào Mường Lễ. Hốt nghe theo nhưng đi đến nửa đường thì Ðăng rút đao đâm chết. Rồi Ðăng cắt đầu để vào một cái tráp son mang về Ðông Kinh, xin ra mắt Trịnh Hoành Bá. Bá mừng rỡ, đưa Ðăng vào tiến cử với Lê Lợi. Khi Vua còn ngần ngừ chưa biết sắp đặt thế nào thì Bá bảo Ðăng, muốn tiến quan, chỉ có một con đường. Và nếu con cái đã có rồi, không sợ chuyện vô hậu, thì cứ việc thiến đi là được. Ðăng xin nghĩ lại, nhưng chỉ một tuần trăng sau là hớn hở đến nói, ‘‘ ...trình quan lớn, xoẹt một cái xong rồi ! ’’ . Bá cười đùa ‘‘ ...thế thì hoạn lộ thênh thang trước mặt, cật không ấm nhưng cơm no, là sướng được một nửa ! ’’.
Cuối tháng giêng, bọn Bá, Khí và Ðức Dư trình lên Lợi một bản mật tấu về câu chuyện sông Nhị tự nhiên nẩy vàng. Thời gian đó, Lợi đang bực bội thấy quan cũng như dân ăn chơi buông tuồng, vừa ra lệnh sau Tết ai đánh bạc thì chặt năm ngón tay, đánh cờ chặt một phân một ngón tay, và tụ họp rượu chè thì đánh một trăm trượng. Nghe Bá nói xong, Lợi quát :
- Làm gì có chuyện mưa sao rồi chảy ra sông thành vàng... Rồi thế nào mà bọn đại thần lại biết trước mà cho gia nhân lính tráng ra nhặt ? Vàng này là vàng ở đâu ?
Bá rập đầu :
- Tâu hoàng thượng, trong số kim vật bọn hạ thần lượm lặt có hổ phù của tướng Minh trấn thành Xương Giang.
Chùm lông trên nốt ruồi bên má Lợi giật lên bừng bựt. Lợi nheo mắt ngẫm nghĩ rồi bảo :
- Ðưa hổ phù cho ta xem tận mắt. Chúng bay phải điều tra cho thật kỹ càng !
Dăm bữa sau, bọn sai nha viện Nội Mật dâng sớ, tâu rằng đám quan gốc Kinh lộ và miệt thượng du phía bắc ở Mường Lễ, Mường Việt và Mường La mang ý đồ cát cứ. Câu chuyện sông Nhị chỉ là cái cách phao lên rằng vàng bạc châu báu lấy từ tay quân Minh ở các thành nhiều đến thế mà quan quân khổ cực vào sinh ra tử thì vẫn trắng tay. Ðiều này nhằm gây ra tị hiềm để phân hóa và chia rẽ trong nội bộ triều đình, tạo điều kiện để sau chúng sẽ kéo bè kết đảng nhằm tạo thời cơ.
Lợi gọi quân sư Nguyễn Tử Hoan đến ngay tối hôm có mật sớ nhưng không đưa ra, chỉ hỏi :
- Ta nghe Nội Mật Viện báo trên Mường Việt và Mường Lễ, đám Bế Khắc Thiệu và Nông Ðắc Thái ở châu Thạch Lâm lăm le nổi loạn. Tết vừa qua ta có gọi mà chúng không về Kinh, chỉ tạ lỗi nhăng nhít...
- Tâu trình hoàng thượng, thần cho rằng chúng có làm loạn thì cũng là giặc cỏ mà thôi...
Lợi ngắt :
- Nhưng nếu chúng có móc nối ở Kinh sư thì sao ? Gốc loạn ở đâu ?
Hoan chắp tay :
- Ở Kinh sư !
Lợi ngắt lời :
- Chuyện hư thực chưa thể biết. Tả tướng quốc, người biết rõ tình hình trấn Thái Nguyên và dân hai mường Việt - Lễ, khi xưa cũng đã từng sai bảo được bọn Thiệu, Thái. Liệu có nên sai lên xem cớ sự ra sao không ?
Bàn bạc một hồi, cuối cùng Lợi bảo :
- Ông thảo chiếu vời Tướng quốc cho ta.
Hoan gập đầu vâng mệnh.
Liền sau đó Lợi phao là mình bệnh nặng, sai Bình Chương sự Lê Vấn, Ðại tư mã Lê Ngân và thiếu phó Lê Văn Linh mang kim sách lập Tư Tề làm Quốc Vương. Ðồng thời, Lợi sai Tư khấu Lê Sát, Tư không Lưu Nhân Chú, Tư mã Lê Lý, Thiếu úy Lê Quốc Hưng mang kim sách lập Nguyên Long làm Hoàng thái tử. Dẫu đều là quốc thích, bọn đại thần như vậy chia thành hai phe cầm chân lẫn nhau. Lợi lại xuống chiếu cấp đất cho đám võ quan, cắt tinh binh Thiết Ðột thành năm đạo, một đạo bảo vệ Lợi gọi là Ngự tiền Thiết Ðột, còn lại chia ra kiểm soát kinh thành và vùng phụ cận Ðông Quan. Khi vấn đề an ninh tạm ổn, Lợi bất ngờ ra lệnh tập diễn thủy bộ cho toàn quân. Lệnh ra ngày hai mươi mốt tháng hai, đến ngày hai mươi bảy thì phải tập hợp, ai vắng mặt sẽ bị tội. Ðầu tháng ba, Lợi chia mỗi vệ quân làm năm phiên, một ở lại, bốn cho về làm ruộng.
Nội Mật viện báo với Vua làm sao không biết, chính sử chép rằng dẫu đã cho gọi về kinh nhưng một số quân tướng lại bất tuân quân lệnh. Ngoài ra, chẳng biết thế nào mà Nội Mật viện hạ ngục gần một trăm người, phần lớn là những võ tướng đã vây đánh thành Cổ Ðộng, Chí Linh và nhất là thành Xương Giang.
*