Đất Trời- Chương 10 part 1

Chương 10: CUNG ÐÌNH

Tháng chín, Quí Sửu ( 1432 )
Nguyên Long lên ngôi. Thái Tông Văn hoàng đế, niên hiệu Thiệu Bình, lúc đó chưa được mười hai tuổi nhưng không nhờ Thái Hậu buông rèm coi chính sự. Nguyễn Trãi được sai viết văn bia Vĩnh Lăng kể công đức Lê Lợi, lại lui về Côn Sơn, dâng biểu từ cái chức Gián Nghị đại phu được Tiên đế phong cho. Thị Lộ đùa :
- Này thầy, người ta là quan có quyền. Còn mình, làm quan chỉ có trách vụ can ngăn. Mà lại can ngăn Vua, nghĩa là không có thể xiểm nịnh ton hót. Em nghĩ - Lộ cười - con đường thăng quan của Gián Nghị đại phu là con đường xuống huyệt ! Thầy từ quan là không muốn em góa, em đội ơn thầy !
Nghe Lộ nói, Trãi mủi lòng nhưng cố gượng cười. Vua nay miệng còn hơi sữa, có làm gì đâu mà cần can ngăn. Quyền lực nay tập trung vào tay bộ ba Sát, Vấn, Ngân.
Nhưng thời cuộc đầu năm Thiệu Bình thứ nhất vẫn còn là một bàn cờ thế. Sát nắm quân đỏ, bên kia Ngân nắm quân đen. Vấn lúc gà bên này một tiếng, khi phụ họa bên kia một câu. Ðám quan văn võ bu quanh xuýt xoa trầm trồ. Riêng bọn Nội Mật viện, vốn xảo quyệt, không bàn tán, chầu rìa chờ lúc cờ tàn để thủ đắc cơ hội đẩy tốt sang sông. Về phần bọn hoạn quan, chúng là những kẻ bị lãng quên với một ông vua không chút quyền hành, cho đến nay chỉ biết bắt chúng làm ngựa để cưỡi lên lưng. Thái giám Ðinh Hối lầm lũi trong hành lang cung cấm, thì thào bàn tán với đám hoàng phi mới góa bụa đang hóa thành những cái bóng ma dật dờ ngẩn ngơ trước một cuộc đổi đời trong chớp mắt.
Tân niên, năm Giáp Dần. Năm tuổi của tân Hoàng đế khiến miệng lưỡi thế gian có dịp kháo nhau không biết liệu nhà vua có tai qua nạn khỏi không ? Ðó là cách nói cạnh nói khóe vu vạ cho những kẻ nắm quyền bởi đám người đang hoang mang tìm chỗ đứng. Ðinh Hối bắt mối với học sĩ Lê Cảnh Xước, người của Nội Mật viện, chuyên việc giấy tờ thu thuế dưới tiên triều. Xước bàn bạc thế nào với Nguyễn Thúc Huệ không một ai biết, đi liên lạc đám văn quan như Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thiên Hựu, Trình Thuấn Du, Bùi Ư Ðài, Bùi Cầm Hổ... Sát biết chuyện, hiểu là muốn nắm triều chính thì không thể thiếu bọn giá bút. Dùng Phan Thiên Tước như thân tín, Sát sai cấu kết với Thái sử Bùi Thì Hanh và Lễ bộ thị lang Trịnh Toàn Phương. Tước bàn bạc với Cảnh Xước và Cầm Hổ, tạo ra liên minh giữa Sát và bọn văn quan, đằng sau được sự ủng hộ của Nội Mật viện. Trong khi bọn giá bút tính toán, đám túi gươm vẫn bình chân như vại. Ðại đô đốc Lê Vấn nắm binh quyền, nay lại được giao trách vụ kề cạnh ngôi vua, cùng Tư không Lê Ngân lấn dần quyền Tư đồ Lê Sát, nhưng cả hai đều ngạc nhiên không thấy Sát phản ứng mạnh mẽ.
Sau Tết Nguyên Ðán, bộ ba Sát, Vấn, Ngân duyệt lại chiếu dụ trong dịp tân niên. Ngày mồng sáu tháng giêng, Nguyên Long ngồi trên ngai vua, đọc :
Ðạo làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành. Mới rồi, tìm người hiền giúp việc trị nước, đã có lệnh cho mọi người tiến cử, đến nay vẫn chưa được một người nào, thế là ra làm sao ?
Sát đỏ mặt, cau mày nhìn Vấn. Sau buổi chầu, Sát hỏi Vấn, giọng gay gắt :
- Ðại Ðô đốc, chiếu dụ không phải như tôi cũng như cả ngài và Ðại Tư không đã cùng nhau duyệt trước và đồng ý. Thế là ngài có ý gì ?
Vấn luống cuống :
- Chính tôi cũng không hiểu ! Ta cùng lại hỏi nhà Vua xem sao !
Khi Ðinh Hối đưa ba vị phụ chính vào cung Càn Ðức, Nguyên Long đang ngủ trưa. Bị đánh thức, Long cầu nhàu nghe Ðinh Hối dặn dò. Lát sau, Long ra ngồi trên sập. Vấn khẽ rập đầu, hỏi :
- Hoàng thượng, sao không đọc chiếu dụ do thần dâng ?
- ...
- Ai xui Hoàng thượng sửa lại câu đầu. Lẽ ra là ‘‘ Trẫm ở ngôi cao, nhưng nhờ ba vị đại thần phụ chính, giữ nghiêm phép nước, thiên hạ an lạc thái bình ’’.
- Không ai xui ta ! Lời ta xuống chiếu, là lời của Mạnh Tử bàn về đạo làm tôi ! Sai chăng ? Ðại đô đốc sửa lại thế nào ?
Nghe Nguyên Long thản nhiên đáp với giọng khiêu khích, Lê Vấn gầm gừ :
- Hoàng thượng tuổi nhỏ, chớ có dại dột nghe bọn xấu xúi bẩy. Chắc lại trong đám hoạn quan...
Vấn không ngờ là Long đột nhiên nắm chén trà đập xuống đất, quát lên :
- Hai vị Tư đồ và Tư không có nghe chưa ? Bảo Vua là dại dột có phạm thượng không ? Ta tuổi dẫu nhỏ, nhưng ta là vua. Ðại tư đồ, khi Tiên đế băng hà, dặn gì, Tư đồ còn nhớ không ?
Sát chẳng nói chẳng rằng, quì xuống rập đầu xin tha tội. Ngân bắt chước, và Vấn đặng chẳng đừng cũng phải làm theo. Dĩ nhiên, Ngân không thể bênh Vấn. Liên minh này từ nay có vết rạn : Sát đồng ý với Ngân rằng từ nay trở đi, chỉ để Hoàng thượng dựa cột bên đông điện Hội Anh nghe việc triều đình, ngai vàng ở giữa bỏ trống, một bên là Lê Sát, bên kia là Lê Ngân ngồi coi chính sự.
Dựa trên chiếu cầu hiền, bọn văn quan thảo sớ tiến cử lại Nguyễn Trãi nay đã về ở ẩn trên Côn Sơn. Sát không thể chối từ, thể theo cái điều đã ngầm thỏa hiệp với đám văn quan. Riêng về phần Nguyên Long, nhà vua học được bài học đầu của quyền lực. Mỗi lần nhớ đến khuôn mặt thất thần của một viên Ðại đô đốc đã từng chiến trận hai mươi năm, Long không khỏi cùng một lúc thấy lại trước mắt mình vẻ hỉ hả ở đuôi mắt Lê Sát.
*
Trong số một trăm năm mươi sáu người được gọi ra tham chính chẳng phải chỉ có Nguyễn Trãi. Vấn nay đã ngả về phía Lê Sát, đồng tình cho gọi Trịnh Hoành Bá và Lê Quốc Khí, kẻ đã hãm hại Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, từ Diễn Châu về Kinh. Nguyễn Thiên Tích và Bùi Cầm Hổ đều là Ngôn quan thời tiên triều, đọc lại chỉ dụ của Lê Lợi, nghiêm cấm không bao giờ dùng Hoành Bá, Quốc Khí vì tội cáo gian giết hại công thần. Sát thuận theo lời Tích và Hổ, nhưng đòi phải ủng hộ mình quyết định truất chức Trịnh Khắc Phục, em khác cha cùng mẹ với Lưu Nhân Chú, không cho làm Nam Ðạo hành khiển. Em của Phục là Trịnh Khả uất ức nhưng không làm gì được.
Ngày mười lăm tháng giêng, Lê Sát làm chủ tế, sai giết ngựa trắng lấy máu cho bá quan ăn thề, lập đàn tế cáo với trời đất. Ngày hai mươi, Sát điểm quân bộ và quân thủy trên bờ sông Nhị, cạnh dinh Bồ Ðề. Bấy giờ, rõ là Sát đã nắm được gần hết quyền bính. Chưởng quan Nội Mật viện Nguyễn Thúc Huệ lúc đó mới ngả cờ, trở thành cánh tay phải của Sát trong mọi sự vụ quan hệ.
Nguyễn Trãi được bổ làm Hành khiển thừa chỉ, dâng biểu tạ ơn. Vài ngày trước khi Trãi rời Côn Sơn về Kinh, Lộ nói dỗi :
- Thầy làm Hành khiển cho một vị thiếu đế không có quyền, chắc là sẽ bận bịu lắm. Thôi, thầy cứ đi một mình, thầy nhé...
Trãi phải năn nỉ mãi Lộ mới chịu theo, nhưng dặn là không thù tiếp ai ở nhà, và nhất là cứ có dịp thì rời Ðông Ðô lánh đi Nhị Khê.
Công việc đầu của Trãi không dính gì đến sự vụ hành khiển. Nguyễn Thiên Tích làm Ngự tiền học sinh cục trưởng, xin để Trãi phụ tá mình trong kỳ thi học sinh đầu tháng hai, lấy đỗ nghìn người, chia làm ba bậc. Bậc nhất và nhì, đưa về cho học ở Quốc tử giám. Bậc ba, cho học tại các nhà học ở các lộ và đều miễn lao dịch. Ðó là lần đầu lê dân có cùng cơ hội như đám con cháu quan từ hàng tam phẩm trở lên vẫn tự động được vào học ở mọi nơi. Nhưng nói cho ngay, từ thời Lê Lợi, cái học ở Quốc tử giám dẫu chỉ nhắm đào tạo nha lại cũng chẳng mấy thành công. Trãi cùng đám quan văn dâng sớ xin cải tổ việc học . Bọn đại thần phụ chính gạt đi, coi chữ nghĩa là phù phiếm.
Sự nghi kỵ đám giá bút sau thời gian đó trở thành trầm trọng vì vụ giám sinh Nguyễn Ðức Minh bị bắt. Số là Minh rời nhà đến Quốc tử giám, thấy dán ở vách đền trên đường một mảnh giấy trong có câu ‘‘ ...Ðại tư đồ Lê Sát và Ðô đốc Lê Vấn cùng mưu giết ông Sĩ phán đại lý ’’. Ðức Minh gọi người đến xem rồi lấy xé ra ném xuống nước. Ai cũng biết ông Sĩ chính là tên tục của Lưu Nhân Chú. Sát giận, ngờ Minh viết, sai bắt rồi tra khảo thừa sống thiếu chết để tìm ra những kẻ chủ mưu đằng sau. Minh không nhận. Sát định chém nhưng Ngôn quan Nguyễn Thiên Hựu cho là còn ngờ, xin giảm tội chết, chỉ tịch biên gia sản và bắt đi đày.
Thời gian đó, nạn hạn hán đã kéo dài hai tháng. Không mưa, mặt ruộng khắp nơi nứt nẻ sạm xịt như da xác chết, cả mùa lúa vụ Ðông Xuân coi là thất bát. Dân từ Mường Ba Long, Mường Mộc... kéo về Kinh ăn mày ăn xin, người chết đói rải rắc khắp năm cửa ô. Sát lo, nhưng không biết làm gì hơn là sai đặt đàn chay ở điện Cần Chính rồi cho cầu đảo. Theo lời của vợ lẽ là Nguyễn thị, Sát bắt các quan rước Phật chùa Pháp Văn ở Cát Châu về Kinh cầu mưa, dùng tay thuật sĩ họ Trần lập đàn tế sao ba ngày ba đêm. Trời vẫn không mưa. Ngày 24 tháng tám, vào giờ Thìn, Kinh đô nhốn nháo, hàng dân la ó chạy như kiến vỡ tổ vì ở phương đông bắc, khí xanh khí đỏ như hình cầu vòng tụ lại lừ lừ bay về. Cũng hôm đó, người thợ ở Tả ban tất tác là Cao Sư Ðăng xây chùa Thanh Ðàm có đến tám mươi gian, buột miệng ‘‘ ...thiên tử không có đức, đại thần ăn của đút, có gì là thiện đâu mà làm chùa to thế ! ’’. Bị cáo giác, Sát nghe giận lắm, sai bắt Sư Ðăng. Quan thẩm hình bảo ‘‘ Nó dám nói càn, đem chém ! ’’ . Nguyễn Thiên Hựu lại xin tha tội chết. Sát quát ‘‘ ...trước đã nghe ông, không giết Ðức Minh vu cho ta tội hại công thần, nay lại định tha thằng này, làm sao răn sợ đứa khác ! ’’. Hựu không nói nữa. Sát sai mang chém Sư Ðăng thì trời mưa nhỏ. Hôm sau, trong triều Sát hớn hở :
- Nếu nghe Ngôn quan, làm gì có trận mưa ấy.
Không ai ngờ rằng Lê Ngân nói sẵng:
- Giết nhiều kẻ xấu thì mưa nhiều, chỉ có điều xương người chất đầy đường khó đi mà thôi !
*
Trời vẫn giáng cơn hạn xuống đất Giao Chỉ, cả tháng chưa có đến một giọt mưa. Bắt đầu vào hè, mặt đất chằng chịt những vết cùi hủi khô hoác trơ ra dọa nạt. Gạo trong kho nhà vua phát đã gần hết, trong khi đám người đói ăn kéo về Kinh mỗi lúc một đông. Họ ngơ ngẩn, mắt trắng dã, miệng hông hốc, chân bước khật khừ. Lê lết ở cổng chùa chiền, họ xếp thành hàng dài, tay nâng những chiếc bát mẻ lên mỗi khi có khách thập phương đi ngang.
Một điều lạ, hàng dân trố mắt thấy quân lính địa phương từ các châu, lộï đi hộ tống từng đoàn xe chở hàng trăm cái cũi đưa về Kinh. Sau những mảnh vải đen trùm lên cũi, không ai biết là gì. Chỉ nghe thấy tiếng kêu tựa như tiếng chí chóe, người ta kháo nhau có lẽ là tù binh bắt từ Mường Ba Long, nơi có dân nổi loạn chống triều đình. Có người ra dáng chê bai, bảo đói thế này, giết cho xong chứ tù chỉ nuôi tốn cơm. Từ cửa Ðại Hưng, đoàn xe tập hợp lại rồi theo ven sông Tô Lịch chia nhau đi về phía Hoàng cung. Thái sử Bùi Thì Hanh và Lễ bộ thị lang Trịnh Toàn Phương đã chờ sẵn, chỉ trỏ ra lệnh, đoàn xe cái thì vào điện Vạn Thọ, cái thì vào điện Cần Chính, Kính Thiên ... Phương không đội mũ và không mặc áo tía dành cho quan hàng ngũ phẩm như lệ thường. Bỏ tóc xõa đến vai, quan Lễ bộ lần này choàng lên người một bộ áo thụng trắng toát, lưng thắt bằng dây cói, tay cầm thiền trượng có gắn những quả chuông nhỏ leng keng nhịp theo từng bước.
Ðầu giờ Thìn, ba tiếng trống thì thùng điểm. Khi đó, Lê Sát và Nguyễn-thị từ điện Kính Thiên bước ra. Cũng đúng lúc đó, có tiếng lao nhao. Rồi tiếng quát :
- Sao lại bắt ? Bắt làm gì ? Trả lại cho ta...
Sát quay sang hỏi. Tên chưởng đội chạy ra. Lát sau, hắn quay về, gập đầu thưa :
- Bẩm Ðại Tư đồ, một thằng khùng khùng...
Ngoắc tay, Sát lạnh lùng :
- Bắt nó, hạ ngục ngay cho ta !
Toàn Phương lẩm bẩm khấn vái cho đến khi Thái sử Bùi Thì Hanh đến gần nói nhỏ vào tai. Cả hai tiến về phía Sát. Phương vòng tay cúi đầu :
- Bẩm Ðại Tư đồ, mọi việc đã sẵn sàng. Ðại Tư đồ đi ngay cho !
Sát nhìn lên trời cao. Nắng gay gắt đổ lửa xuống nhân gian không một chút gì thương xót. Ðằng xa, tháp Báo Thiên ánh lên sắc lấp lóe của những chiếc tầm sét chờ cơn thịnh nộ. Thình lình trời tối dần. Khi cả bọn vào trong điện Kính Thiên, Thì Hanh thì thầm :
- Bẩm Ðại Tư đồ, con tinh vượn đen sắp ăn mặt trời. Ðúng khi nó nhe răng ra gặm, ta mới giết những con vượn sống đã trấn yểm ở vị bộ bát quái trong cung điện, ắt khống chế được tai biến như hạ quan đã trình...
Hanh chưa dứt lời thì Toàn Phương, răng cắn chặt một bó hương đang cháy, tay phải cầm thiền trượng, tay trái buộc bó chỉ ngũ sắc giơ lên bắt quyết, đảo người xoay vòng vòng như lên đồng. Nhạc ngũ âm tấu lên, cung bậc thoắt lên cao, chói vào tai như kim đâm. Nguyễn-thị thì thào :
- Khống chế tai biến thế nào ?
Thì Hanh đáp :
- Dạ, lúc tinh vượn thấy đồng loại chết, nó sợ há mồm ra kêu thì không nuốt được mặt trời...
Trời tối sầm xuống. Ðúng lúc ấy, trống ngũ liên nổi lên. Ngoài cung, tiếng la ó, tiếng chân chạy thình thịch. Ở khắp các điện, vượn tru tréo kêu thảm thiết. Bọn lính rút dao chực sẵn, dứt hồi trống là thẳng tay đâm vào rồi cứa cổ vượn. Giết xong, bọn lính được lệnh lấy máu vượn vẩy lên sân cung điện. Ðến lúc mặt trời ló ra thì rõ là con tinh vượn đã bỏ chạy vì sợ. Sợ cũng phải, đếm ra có đến dư ba trăm con vượn được mang ra trấn yểm ở năm cung và sáu điện. Máu trên sân, trên sàn, đỏ lè, kỳ cọ phải hai ngày sau mới sạch.
Sau hôm có nhật thực, Ðại Tư đồ nắm quân quyền vui hẳn lên, hậu thưởng cho Bùi Thì Hanh và Trịnh Toàn Phương. Chẳng để Nguyễn - thị nài nỉ lâu, Sát để vợ lạy Toàn Phương làm thầy. Mặt trăng đói đi gặm mặt trời đâu chỉ là điềm họa. Lính mang xác vượn ra phân phát cho những người đói ăn nằm rải rác khắp nơi trong Kinh. Họ hò hét tranh nhau xô vào cướp. Có kẻ kêu ‘‘ Ăn vượn, như ăn trẻ con ! ’’. Người ta liền đáp ‘‘ ...đói thì trẻ con cũng ăn ’’. Từ cổng chùa Báo Thiên, Ðạo Khiêm miệng niệm nam mô, đi theo một chú tiểu. Không hẹn, Khiêm chống gậy đến chỗ Trãi ở, bảo :
- Ông bạn của chúng ta bị bắt rồi. Hôm qua hắn la ó gây sự với bọn quan quân ở Hoàng thành...
Trãi hỏi cớ sự, rồi cả hai đến Thẩm hình viện xin cho gặp tên tù mới bắt, vào ngục nhưng vẫn la thét cả đêm như người điên. Ngục quan mở cửa, tay đưa một ngọn trủy thủ, thưa với Hành Khiển rằng nếu tên tù điên thật thì cứ giết ngay, không sao. Ðạo Khiêm và Trãi bước vào, nhìn Lý Tử Cấu co ro nằm, đầu gối kéo lên đến cằm. Khiêm chưa kịp hỏi, Cấu đã kêu toáng lên:
- Chúng nó bắt con vượn lông vàng của đệ rồi !
Thấy Trãi bên cạnh Khiêm, Lý Tử Cấu nổi nóng, gay gắt :
- Huynh đài thấy đấy ! Muốn cướp muốn bắt là cướp là bắt...Cái triều đình của huynh còn ngặt hơn cả bọn quân Minh ngày xưa.
Trãi ngượng ngùng im lặng, để Ðạo Khiêm kể. Nghe việc giết vượn trấn yểm, Cấu nước mắt trào ra, giận dữ gào :
- Chúng nó giết tri kỷ của ta rồi ! Trời ơi ! Trời không có mắt ư ?
Quay mặt vào tường, Cấu ấm ức khóc như con trẻ, mặc cho Ðạo Khiêm dỗ dành an ủi. Trãi buồn bã, không nói gì. Làm quan, chàng mới biết mình liên đới trách nhiệm cả cái chuyện dị đoan mê tín mà bọn Thì Hanh và Toàn Phương giấu kín cho đến lúc thi hành.
Thẩm hình quan cho lệnh tha, Trãi và Ðạo Khiêm thuê cáng mang Lý Tử Cấu về chùa Báo Thiên. Cho đến lúc Trãi chắp tay tạ từ, Cấu mới mở miệng :
- Này Ức Trai ! Hiền huynh sướng hay khổ ?
Ngập ngừng, Trãi thốt :
- Không sướng !
- Nhàn nhân bất lợi thiên hạ, thiên hạ trị hỉ ! Ðừng ai đi làm lợi cho thiên hạ, ắt thiên hạ sẽ vui mà trị. Ðệ hiểu huynh không phải vì cái bả khanh tướng mà xuất. Nhưng huynh nhớ cái tích Dương Tử đi câu ở sông Bộc chứ. Hai đại phu được Sở Vương sai đến vời ông ra phụ chính, ông không thèm ngoảnh lại, bảo thà là con rùa sống kéo đuôi trong bùn còn hơn con rùa chết bảo quàn ở chốn miếu đường. Thôi đi, đi đi, đừng làm bẩn mình nữa !
- ...
*
Sai người vời Thị Lộ vào hoàng cung, Nguyên Long thấp thỏm từ khi mặt trời ló ra sau đỉnh tháp Báo Thiên phía đông điện Càn Ðức. Ði ra đi vào, Long ngứa chân đá bọn hoạn quan, miệng chửi om xòm. Xưa nay vốn được yêu dùng, Ðinh Phúc cũng phát sợ, tìm gọi Lương Ðăng. Dưới tiên triều, Ðăng đã chém đầu chú ruột là ngụy quan Lương Nhữ Hốt, kẻ làm tham chính cho Thượng thư Hoàng Phúc nhà Minh sang cai trị Giao Châu. Ðăng tìm đường tiến thủ bằng cách tự thiến để xung vào làm hoạn quan, đồng thời là tai mắt cho Nội Mật viện. Tiên đế Thái Tổ cho Ðăng chức Nội nhân phó chưởng, nhưng vốn tính nghi kỵ và không ưa nịnh nọt, sau đẩy Ðăng ra cho làm văn đội. Nội Mật viện nay lấy cái thế liên minh với Lê Sát, lại đưa Ðăng trở lại hoàng cung, tiếng là để tập tành cho đám cung nhân nghề thư họa hát xướng. Khéo bày trò chiều vị tân hoàng đế tập tễnh vào tuổi dậy thì, Ðăng dần dần chiếm được lòng Nguyên Long.
Ðược lệnh gọi, Ðăng giả khép nép, đẩy cửa rồi quì một gối, giọng như đóng vai hề :
- Muôn tâu bệ hạ, có lệnh truyền là kẻ tiện nhân đến ngay mong báo đáp hoàng ân...
Ðang bực mình, Long sẵng :
- Ta truyền lệnh gì... Hoàng ân cái mả mẹ mi !
Dứt lời, Long giật cây cung treo trên vách. Bọn hoạn quan còn ngạc nhiên thì Long đã lắp tên vào nhắm rồi bắn. Thật may, mũi tên vút cạnh đầu một hoạn quan thập thò ở cửa. Thế là cả đám tóe chạy, miệng la ôi ối. Không ngờ đến cái trò vui lạ lùng này, Long thích chí tiếp tục bắn, tên găm lên vách, lên cột. Bọn hoạn chạy ra vườn Ngự Uyển. Long đuổi, rồi rình cứ như đi săn. Lát sau, đã có kẻ bị tên vào đùi, vừa kêu đau vừa tập tễnh chạy. Long đuổi theo, tay lắp tên, miệng thét ‘‘ ...con hoẵng, mày chạy đằng trời à ?... ’’. Tên hoạn quan ngã chúi mặt vào bụi cây ngâu. Ðịnh chồm dậy nhưng Long đã nhào lại chặn, mũi tên căng trên dây kê vào thái dương, tuột tay là mất mạng như bỡn. Tên hoạn quan sợ quá, miệng rối rít :
- Ối giời đất ôi, tha cho tôi... giời ơi là giời !
Long cười ha hả :
- Lần đầu ta thấy một con hoẵng biết nói. Giời đâu mà gọi, hả ?
- Lạy hoàng đế, bỏ hộï cái mũi tên ra... Con hoẵng này muốn sống... giời ơi là giời !
- Lại gọi giời à ...
Ðúng lúc đó, bọn lính Thiết Ðột ở đâu hiện ra. Một tên quì xuống chưa kịp tâu thì giọng đàn bà đã cất lên :
- Muôn tâu bệ hạ, tiện nữ vâng thánh chỉ đã tới hầu. Xin bệ hạ chớ để tiện nữ thấy máu, sợ lắm...
Nguyên Long nghe tiếng Thị Lộ, quẳng ngay cây cung xuống đất, miệng vui mừng :
- Chị đấy à ! Em chờ mãi... Sốt ruột nên mới phải bày trò săn hoẵng.
Vừa tội nghiệp, vừa buồn cười, Thị Lộ cố giữ cung cách nghiêm trang, quì xuống gập đầu :
- Tiện nữ phụng mệnh, cung chúc hoàng thượng vạn tuế !
Long nhảy lại cạnh Lộ, nắm tay rồi liến láu :
- Với người ta thì bệ hạ hay hoàng thượng được chứ với chị thì không ! Vào đây, vào đây với em...
Vừa nói, Long vừa kéo Lộ đi.
Long có chủ đích, nắm tay Lộ, đi như chạy. Lộ bước theo, nói nhỏ :
- Bệ hạ là vua, chẳng thể như người ta. Xin đừng tự xưng là em như hồi nãy nữa, không được đâu.
Ngừng chân, Long hỏi :
- Làm vua, rồi chẳng thể thế này, không được thế kia ! Thế thì để làm gì ? Chị bảo không xưng em, chẳng lẽ xưng ta à ?
Lộ ngẫm nghĩ. Nhớ đến những mảnh gương vỡ vụn phản chiếu khuôn mặt nát ra thành những mảnh sắc nhập nhòa và tiếng thét vô vọng ngày Long bỏ chạy về hoàng cung dạo nọ, Lộ bỗng chạnh lòng. Tai lại văng vẳng tiếng Long gào ‘‘ ...ta làm gì có mẹ! ’’ và tiếng nghiên mực đập vào cái gương góc thư phòng hôm nào, nàng đồ rằng sự ngỗ nghịch tai quái đến ác độc của Long chỉ là cách giấu đi nỗi cô đơn trong lòng đứa trẻ thiếu tình thương một người mẹ. Nhìn Long, Lộ dịu dàng :
- Thì xưng là... quả nhân. Và thôi, cứ gọi tiện nữ là chị cũng được !
- ...Quả nhân... sẽ chỉ gọi một mình chị là chị.
Hai người đi dọc qua hành cung, rẽ về phía đông điện Hội Anh. Long kéo Thị Lộ đến cạnh chiếc cột to bằng hai người ôm, chạm trổ một con rồng lượn từ dưới lên, ngóc đầu nhìn vào sân chầu nơi bá quan nghị sự. Không nhìn Lộ, Long giọng rưng rưng thì thào :
- Chỗ này là chỗ khốn nạn nhất, chị biết không ?
Lộ ngạc nhiên nhìn. Thân rồng vẩy sắc vểnh lên, vờn quanh là bốn con hổ, con nằm phủ phục, con dương nanh há miệng, con chồm chân như sắp vồ. Lạ là ngoài cặp mắt rồng tròn vo lồi ra, mắt những con hổ bị khoét sạch, nét dao vụng về xoáy vào bằm vặp. Lộ buột miệng :
- Tại sao lại thế ?
- Quả nhân dựa cái cột này đã một trăm sáu mươi hai ngày để nghe chúng nó bàn chính sự, làm cái này, thôi cái nọ... Cái ngai vua bỏ trống, vua đứng dựa cột cho Tư đồ, Tư khấu sai bảo quần thần.
Rút chiếc dao găm từ chiếc bao da có thếp vàng ra cầm, Long thẳng tay đâm vào mắt con hổ đang chồm chân. Vừa khoét mắt hổ, Long vừa nghiến răng :
- Con hổ này nó bắt quả nhân lấy con nó làm vợ đấy... Tháng sau thì con hổ cái về ở điện Vạn Thọ, vua có ưng hay không cũng mặc !
Nói đến đó, Long ngồi phục xuống chân cột, hai tay bưng mặt, khóc rưng rức. Nhìn đôi vai Long run rẩy, Lộ không biết làm gì. Nàng để Long cứ thế khóc vùi, chỉ lẳng lặng nắm tay Long khe khẽ bóp. Nhìn lên, bốn con hổ nay đều chột mắt chầu quanh con rồng vẩy sắc, Lộ rùng mình. Nàng bỗng sợ cho Long. Dẫu sao Long cũng vẫn chỉ là một đứa trẻ. Lộ thì thào :
- Có nhớ chị nói gì dạo nọ không ?
Ngạc nhiên thấy mình xưng chị với Long, Lộ nghe Long nức nở :
- Nhớ, nhớ một chữ nhẫn chị dặn...
Lát sau, Long gạt nước mắt, giọng quả quyết :
- Quả nhân hỏi chị trước, chị ưng thì sẽ xin Tư đồ Lê Sát để chị vào điện Vạn Thọ giảng kinh sách cho quả nhân ! Chị bằng lòng không ?
*
Triều đình đồng lòng sai Hành khiển Nguyễn Trãi viết thư cầu phong với nhà Minh cho Văn Thái Tông Nguyên Long. Biểu cầu phong đã đưa lên Tư đồ Lê Sát duyệt đến hai tuần trăng nhưng Trãi vẫn chưa nghe động tịnh. Khoảng thời gian đó, hoàng cung huyên náo vào dịp làm lễ tơ hồng cho Thái Tông và Lê Kim Dao, con gái thứ của Tư đồ Lê Sát. Chuyện lễ lạc xong, Lê Cảnh Xước và Nguyễn Thúc Huệ mời Trãi vào Nội Mật viện. Xước giả lả :
- Biểu cầu phong do quan huynh viết đúng là rồng bay phượng múa. Duy có một điều bàn với quan huynh là nên đổi lại...
Trãi vái, rồi nhẹ giọng :
- Quan huynh nói, đệ xin lĩnh giáo.