Hồn ma sành điệu - Chương 01 Phần 2

Đây là chuyện xảy ra khi một người thân của bạn là người nổi tiếng. Bạn quen với việc đi đâu cũng thấy máy quay. Và mọi người sẽ hỏi bạn, khi bạn giới thiệu mình, rằng “Lington ư? Có liên quan gì tới cà phê Lingtons không, ha ha?” rồi lặng người khi bạn đáp, “Có.”

Chú Bill của tôi chính là Bill Lington, người sáng lập Cà phê Lingtons từ hai bàn tay trắng hồi chú hai mươi sáu và phát triển nó thành một đế chế chuỗi cửa hiệu cà phê có mặt trên khắp thế giới. Khuôn mặt chú in hình trên mọi cốc cà phê, khiến chú thậm chí còn nổi tiếng hơn cả ban Beatles hay đại loại thế. Bạn sẽ nhận ra chú nếu gặp chú. Và hiện giờ thậm chí chú còn nổi đình nổi đám hơn nữa vì vừa xuất bản hồi ký Hai đồng xu nhỏ bé hồi tháng trước và hiện đang là một best-seller. Hình như Pierce Brosnan sẽ thủ vai chú trong bộ phim.

Đương nhiên là tôi đã đọc từ đầu chí cuối. Cả cuốn sách nói về chuyện chú đã vét nhẵn tới tận hai mươi xu cuối cùng để mua một tách cà phê rồi nó dở đến mức khiến chú nảy ra ý tưởng mở một cửa hiệu cà phê. Thế là chú mở cửa hiệu, rồi phát triển thành một chuỗi cửa hàng, và giờ thì chú hầu như đã sở hữu cả thế giới. Biệt danh của chú là “Nhà Giả Kim”, và theo một bài báo năm ngoái, toàn bộ giới kinh doanh đều muốn biết bí quyết thành công của chú.

Đó là lý do vì sao chú tổ chức các buổi hội thảo “Hai đồng xu nhỏ bé”. Mấy tháng trước tôi đã bí mật đến một trong các buổi hội thảo đó. Chỉ là để xem mình có thể học được thủ thuật nào trong việc tiến hành công việc làm ăn mới toanh không. Hai trăm người đến dự buổi hôm ấy, tất cả đều nuốt lấy từng lời, và đến cuối buổi chúng tôi phải cầm hai đồng xu giơ lên mà nói “Đây là khởi đầu của tôi”. Thật rẻ tiền và đáng xấu hổ, nhưng mọi người xung quanh tôi lại có vẻ thực sự tràn đầy cảm hứng. Về phần tôi, tôi đã nghe kỹ từ đầu đến cuối mà vẫn chả hiểu chú ấy đã làm việc đó như thế nào.

Ý tôi là chú ấy mới hai mươi sáu khi kiếm được triệu bảng đầu tiên. Hai mươi sáu! Chú ấy vừa bắt tay vào kinh doanh là đã thành công ngay. Trong khi tôi khởi nghiệp từ sáu tháng trước và ngay lập tức trở thành kẻ đầu óc có vấn đề.

“Có lẽ một ngày nào đó con và Natalie cũng sẽ viết một cuốn sách về việc kinh doanh của hai đứa!” mẹ nói, như thể đọc được ý nghĩ của tôi vậy.

“Việc thống trị toàn cầu chỉ còn là nay mai nữa thôi,” bố phụ họa nhiệt tình.

“Nhìn kìa, có con sóc!” tôi hấp tấp chỉ ra ngoài cửa kính xe. Bố mẹ đã rất ủng hộ công việc kinh doanh của tôi, tôi không thể nói với họ sự thật. Vì vậy phải chuyển chủ đề ngay khi họ đề cập đến.

Chính xác mà nói thì mẹ không ủng hộ ngay lập tức. Thực ra có thể nói là khi tôi mở miệng tuyên bố bỏ công việc marketing và đem toàn bộ tiền tiết kiệm đi mở một công ty săn đầu người trong khi chưa từng làm công việc ấy bao giờ trong đời hay biết chút xíu gì về nó thì mẹ tôi suýt ngất.

Nhưng bà đã bình tĩnh lại khi nghe tôi giải thích là tôi sẽ làm ăn cùng với cô bạn thân Natalie. Và rằng Natalie là người làm nghề tư vấn nhân sự cực giỏi, cô ấy sẽ điều hành công việc trước còn tôi sẽ làm quản trị cùng marketing đồng thời tự học kỹ năng tư vấn nhân sự. Rằng chúng tôi đã có một vài hợp đồng đang chờ và sẽ trả hết khoản vay ngân hàng ngay.

Nghe giống như một kế hoạch tươi sáng. Nó đúng là một kế hoạch tươi sáng mà. Cho tới tháng trước khi Natalie đi nghỉ, yêu một gã vô công rồi nghề suốt ngày nằm thư giãn trên bãi biển ở Goa, rồi một tuần sau viết cho tôi lá thư bảo không biết lúc nào mới về, nhưng mọi dữ liệu đều để trong máy tính và tôi sẽ ổn thôi và sóng ở đó tuyệt lắm, tôi nên đến chơi, hôn thắm thiết.

Tôi sẽ không bao giờ hợp tác làm ăn với Natalie nữa. Không bao giờ.

“Nó tắt rồi chứ hả?” mẹ chọc chọc chiếc điện thoại di động của mình vẻ không chắc chắn, “Em không thể để nó đổ chuông trong lúc buổi lễ diễn ra được.”

“Xem nào,” bố đánh xe vào chỗ đỗ, tắt máy và cầm lấy điện thoại, “Em muốn để chế độ ‘im lặng’ hả?”

“Không!” mẹ hốt hoảng, “Em muốn tắt hẳn! Chế độ im lặng có thể gặp trục trặc!”

“Được rồi,” bố ấn nút bên rìa, “Tắt rồi,” bố trả lại điện thoại cho mẹ, bà nhìn nó đầy lo âu.

“Thế ngộ nhỡ tự dưng nó lại bật lên khi nằm trong túi xách của em thì sao?” Bà nhìn cả hai bố con tôi khẩn nài, “Anh biết là chuyện này đã xảy ra với Mary lúc ở câu lạc bộ du thuyền mà. Cái thứ đó đã sống dậy trong túi xách của cô ấy khi cô ấy đang làm giám khảo. Họ bảo chắc cô ấy đã va hay chạm vào nó kiểu gì đó…”

Giọng của bà vót lên và trở nên đứt quãng. Cứ hễ nghe giọng mẹ như thế là chị Tonya mất kiên nhẫn và nổi quạu, “Đừng có ngớ ngẩn thế mẹ, đương nhiên là điện thoại của mẹ sẽ không tự động bật lại được!”

“Mẹ.” Tôi nhẹ nhàng lấy chiếc điện thoại ra khỏi tay bà, “Sao chúng ta không để nó lại trong xe nhỉ?”

“Đúng rồi.” mẹ đỡ căng thẳng một chút. “Đúng rồi. Ý hay đấy. Mẹ sẽ cất nó vào ngăn để găng tay.”

Tôi liếc sang bố, bố nhìn tôi hơi mỉm cười. Tội nghiệp mẹ. Mấy cái chuyện diễn ra trong đầu mẹ thật hết sức vớ vẩn phi lý. Thực sự là bà cần phải nhìn nhận mọi chuyện đúng mức.

Khi chúng tôi tới trung tâm tang lễ, tôi nghe thấy cái giọng lè nhè đặc trưng của chú Bill vọng ra, và quả vậy, khi chúng tôi len qua một đám đông nhỏ thì thấy chú ấy đang ở đó, mặc áo jacket da, da rám đều và mái tóc bồng bềnh. Ai cũng biết là chú Bill bị ám ảnh chuyện tóc tai. Nó dày, tốt um và đen nhánh, và nếu có tờ báo nào có ý bảo chú nhuộm tóc là chú dọa sẽ kiện họ ngay.

“Gia đình là quan trọng nhất,” chú đang trả lời một người phỏng vấn vận đồ jean. “Gia đình là hòn đá tảng cho tất cả chúng ta đứng. Nếu phải cắt ngang lịch làm việc của mình vì một đám tang, tôi sẽ làm thế.” Tôi có thể thấy sự ngưỡng mộ lan ra khắp đám đông. Một cô gái, đang cầm một cốc cà phê Lingtons mang về, nhìn sang bên cạnh và liên tục thì thầm vào tai cô bạn, “Đích thị là ông ấy!”

“Xin lỗi, chúng ta phải dừng lại ở đây thôi…” Một trợ lý của chú Bill đến gần người quay phim. “Bill phải vào nhà tang lễ. Cảm ơn các cậu. Chỉ một vài chữ ký thôi…” ông ta nói thêm với đám đông.

Chúng tôi kiên nhẫn đứng đợi bên cạnh cho tới khi chú Bill ký xoèn xoẹt lên cốc cà phê và tờ chương trình tang lễ của từng người bằng một chiếc bút đánh dấu Sharpie, trong khi máy quay ghi hình họ. Rồi cuối cùng họ cũng tản mát dần và chú Bill dẫn đầu đoàn chúng tôi đi vào.

“Chào Michael. Rất vui gặp lại anh.” Chú bắt tay bố rồi ngay lập tức quay lại nói với một trợ lý. “Anh gọi được cho Steve chưa?”

“Đây ạ.” Viên trợ lý vội vàng đưa cho chú Bill một chiếc điện thoại.

“Chào Bill!” Bố thì bất kể lúc nào cũng lịch sự với chú Bill, “Lâu rồi nhỉ. Chú dạo này thế nào? Chúc mừng cuốn sách của chú.”

“Cảm ơn chú vì cuốn sách chú ký tặng!” mẹ vui vẻ xen vào.

Bill gật cái rụp với cả nhà tôi, rồi nói thẳng vào điện thoại. “Steve, tôi nhận được email của anh rồi.” Bố mẹ liếc nhìn nhau. Rõ ràng đây là kết cục vụ đoàn viên của đại gia đình chúng tôi.

“Đi xem chúng ta phải đi vào đâu nào,” mẹ thì thào với bố. “Lara, con vào chưa đấy?”

“Con sẽ ở ngoài này một chút,” đột nhiên tôi nói, “Gặp bố mẹ trong đó nhé!”

Tôi chờ tới lúc bố mẹ đã đi cả, rồi mon men tới gần chú Bill. Tôi vừa chợt nảy ra một kế hoạch đen tối. Tại buổi hội thảo, chú Bill đã nói rằng chìa khóa thành công cho bất cứ doanh nhân nào là nắm lấy mọi cơ hội. Ờ, tôi là một doanh nhân phải không nào? Và đây là cơ hội, đúng không?

Tôi chờ đến khi có vẻ chú đã nói chuyện xong, mới ngập ngừng nói, “Chào chú Bill. Cháu nói chuyện với chú một lát được không?”

“Chờ đã.” Chú giơ một tay lên, và áp chiếc Blackberry vào tai, “Chào Paulo. Chuyện gì thế?” Mắt chú đảo lại phía tôi và chú vẫy tay ra hiệu, tôi đồ là ý bảo tôi cứ nói đi.

“Chú có biết là giờ cháu đang mở công ty tư vấn nhân sự không?” Tôi nở một nụ cười căng thẳng. “Cháu đang hợp tác với một cô bạn. Bọn cháu đặt tên công ty là công ty Tư vấn Nhân sự Cấp cao L&N. Cháu có thể kể với chú về công việc làm ăn của bọn cháu không?”

Chú Bill nhíu mày, vẻ suy nghĩ với tôi trong giây lát và nói, “Giữ máy nhé Paulo.”

Ối trời! Chú ấy cắt ngang cuộc gọi của mình kìa! Vì tôi!

“Bọn cháu chuyên tìm kiếm các cá nhân có trình độ cao, năng động cho các quản lý cấp cao,” tôi nói, cố gắng không lắp bắp. “Cháu không biết là liệu cháu có thể nói chuyện với ai đó ở phòng Nhân sự bên chú, giải thích các dịch vụ của bọn cháu, có thể sẽ cùng nhau tạo dựng…”

“Lara.” Chú Bill giơ một tay lên ngắt lời tôi. “Cháu sẽ nói sao nếu chú giúp cháu liên hệ với Trưởng phòng Nhân sự của chú và bảo cô ấy: ‘Đây là cháu gái tôi, hãy cho cô ấy một cơ hội’?”

Tôi thấy sung sướng muốn nổ tung. Tôi muốn hát vang Hallelujah. Hành động mạo hiểm của tôi đã thành công!

“Cháu sẽ nói cảm ơn chú rất nhiều, chú Bill!” tôi kiềm chế, cố giữ bình tĩnh. “Cháu sẽ làm hết sức mình, cháu sẽ làm suốt ngày suốt đêm, cháu vô cùng cảm kích…”

“Không.” Chú cắt ngang. “Không phải thế. Cháu sẽ không tôn trọng mình.”

“S-sao cơ ạ?” tôi ngừng lại vì bối rối.

“Chú bảo là không.” Chú nở một nụ cười trắng lóa. “Thế là chú ban ơn cho cháu đấy, Lara ạ. Nếu cháu tự mình làm nên thì cháu sẽ cảm thấy tuyệt vời hơn nhiều. Cháu sẽ cảm thấy là cháu đã giành được nó.”

“Đúng thế.” Tôi nuốt nước bọt, mặt đỏ bừng vì bẽ bàng. “Ý cháu là, cháu muốn giành được nó. Cháu muốn làm việc chăm chỉ. Cháu chỉ nghĩ có lẽ…”

“Nếu như chú có thể đi lên từ hai đồng xu nhỏ, Lara ạ, thì cháu cũng có thể.” Chú Bill nhìn vào mắt tôi một lát. “Hãy tin vào bản thân. Tin vào ước mơ của cháu. Đây.”

Ôi không. Đừng mà. Chú đã thò tay vào túi và giờ đang giơ lên hai đồng mười xu cho tôi.

“Đây là hai đồng xu nhỏ bé của cháu.” Chú nhìn tôi một cái thật sâu, tha thiết, cái kiểu quen thuộc của chú trong chương trình quảng cáo trên ti vi. “Lara, nhắm mắt lại. Cảm nhận nó. Tin vào nó. Nói, ‘Đây là khởi đầu của tôi’.”

“Đây là khởi đầu của tôi,” tôi lầm bầm, cả người co rúm lại, “Cảm ơn chú.”

Chú Bill gật đầu, rồi lại tiếp tục điện thoại, “Paulo. Xin lỗi vì bắt anh chờ.”

Nóng bừng cả người vì xấu hổ, tôi lỉnh mất. Chẳng hi vọng hy viếc gì có được cơ hội nữa. Chẳng có hợp đồng ký cọt gì nữa. Tôi chỉ muốn lễ tang này nhanh nhanh chóng chóng xong để về nhà.

Tôi đi vòng qua tòa nhà, bước qua cửa kính ở mặt tiền của trung tâm tang lễ và lọt vào gian sảnh có bầu không khí dịu nhẹ, có đặt ghế tựa bọc vải và những tấm áp phích chim bồ câu. Không có ai quanh đó, kể cả ở quầy lễ tân.

Đột nhiên tôi nghe có tiếng hát vọng ra từ phía sau cánh cửa gỗ bạc màu. Chết tiệt. Bắt đầu rồi. Tôi trễ rồi. Tôi vội vã đẩy cánh cửa ra – và quả đúng thế, những hàng ghế đã kín người ngồi. Căn phòng đông đến mức khi tôi len vào những người đứng cuối phải chèn nhau dạt sang bên. Tôi tìm cho mình một chỗ càng kín đáo càng tốt.

Khi nhìn quanh, cố xem bố mẹ đang ở đâu, tôi bị choáng ngợp bởi vô khối người đang có mặt ở đây. Và hoa nữa. Dọc theo căn phòng là những lẵng hoa lộng lẫy sắc trắng và kem. Người phụ nữ đứng ở hàng đầu đang hát “Pie Jesu”, nhưng có nhiều người đứng trước mặt tôi quá nên tôi chẳng nhìn thấy gì. Đứng gần tôi, vài người đang sụt sịt, và một cô gái cứ để mặc nước mắt tuôn rơi trên má. Tôi thấy hơi ăn năn. Tất cả những người này tới đây vì bà dì của tôi, còn tôi thì thậm chí chẳng biết gì về bà.

Tôi đã không hề gửi bông hoa nào, đột nhiên tôi ngượng ngùng nhận ra điều ấy. Liệu tôi có nên viết một tấm thiệp hay gì đó không nhỉ? Chúa ơi, tôi hi vọng là bố mẹ đã lo đâu vào đấy cả rồi.

Nhạc thật dễ thương, và không khí trầm lặng tới mức đột nhiên tôi không thể kìm nén được, tôi cảm thấy mắt mình cũng cay cay. Đứng cạnh tôi là một bà đội mũ nhung đen, thấy tôi vậy bà liền tặc lưỡi đồng cảm.

“Cháu có khăn tay chưa, cưng?” bà thì thào.

“Không ạ,” tôi thú nhận, và ngay lập tức bà ta bật mở cái túi da lỗi mốt to đùng sáng bóng. Mùi long não bốc lên, tôi thoáng thấy bên trong có vài cặp kính, một hộp kẹo bạc hà, một gói ghim kẹp tóc, một hộp có nhãn “String” và nửa gói bích quy tốt cho tiêu hóa.

“Mỗi khi tới tang lễ cháu nên mang theo khăn tay.” Bà đưa cho tôi một gói khăn giấy.

“Cảm ơn bà,” tôi hít sâu, cầm lấy. “Bà thật tử tế. À mà tiện thể, cháu là cháu gọi bằng cụ.”

Bà gật đầu thông cảm. “Đây chắc là khoảng thời gian kinh khủng đối với cháu. Gia đình cháu đương đầu với chuyện này ra sao?”

“Ờ…à…” tôi gập chiếc khăn giấy lại, không biết phải trả lời ra sao. Tôi không thể nói chính xác là, “Chẳng có ai buồn phiền đến thế cả, thực tế chú Bill còn đang dính lấy chiếc Blackberry ngoài kia nữa kìa. “Cả nhà cháu phải động viên nhau lúc này,” tôi ứng phó.

“Chính thế đấy.” Cụ bà gật đầu trang trọng như thể tôi vừa nói điều gì thực sự thông thái vậy, chứ không phải trích thẳng từ một tấm thiệp Hallmark ra. “Tất cả chúng ta đều phải động viên nhau.” Bà siết lấy tay tôi. “Cháu thân mến, bà rất sẵn lòng nói chuyện bất cứ lúc nào cháu muốn. Thật vinh dự khi được gặp một người thân của Bert.”

“Cảm ơn bà…” tôi nói như máy, rồi ngập ngừng.

Bert?

Tôi chắc chắn bà dì của tôi không phải tên là Bert. Thực ra là tôi biết tên bà không phải như vậy. Bà tên là Sadie.

“Cháu biết không, trông cháu giống ông ấy lắm.” Bà cụ quan sát khuôn mặt tôi.

Chết tiệt. Tôi nhầm lễ tang rồi.

“Cái trán có gì đó giống. Và cháu có cái mũi của ông ấy nữa. Có ai bảo cháu điều đó chưa, cưng?”

“Ừm… thỉnh thoảng ạ!” Tôi nói hoang mang. “Thực ra là, cháu phải…ờ… Cảm ơn bà rất nhiều về chiếc khăn giấy…” tôi vội vã lách ra phía cửa.

“Cháu gái của Bert đấy.” Tôi có thể nghe thấy tiếng của bà với theo phía sau. “Con bé buồn lắm, tội nghiệp.”

Tôi gần như quăng mình vào cái cửa gỗ mục bạc phếch và lại thấy mình ở trong gian sảnh, suýt bổ nhào vào bố mẹ. Họ đang đứng cùng một người phụ nữ mặc vest đen có mái tóc muối tiêu quăn tít cầm trên tay một tập tờ rơi.

“Lara! Con đã ở đâu thế hả?” Mẹ hoang mang nhìn vào cánh cửa. “Con làm gì ở trong đó thế?”

“Cháu vừa vào tham dự lễ tang cụ Cox hả?” người phụ nữ tóc muối tiêu trông sửng sốt.

“Cháu bị lạc!” tôi chống chế. “Cháu không biết phải đi vào đâu! Các cô nên để biển chỉ dẫn ở cửa ra vào!”

Người phụ nữ lặng lẽ giơ tay lên chỉ vào biển chỉ dẫn có in chữ nhựa trên cánh cửa: “Bertram Cox – một rưỡi chiều”. Chết tiệt. Sao tôi lại không thấy nó nhỉ?

“À, ừ nhỉ.” Tôi cố lấy lại vẻ đường hoàng. “Đi thôi nào. Chúng ta cần phải kiếm một chỗ ngồi.”