HỌA QUỐC - QUY TRÌNH - PHẦN 2 - Chương 035

CHƯƠNG 35 NGƯỜI LO LẮNG (1)

Thu Khương nheo mắt, nhìn sơn trang ở phía trước.

Hàng rào được xây rất cao. Cánh cửa lớn chỉ làm bằng gỗ thô không hề được sơn sửa, trên tấm biển viết bốn chữ lớn “Đào Hạc sơn trang”, nét chữ múa lượn như mây, đây chính là nét chữ của Thừa thướng đương triều Phong Nhạc Thiên.

Lớp tuyết mỏng đọng trên biển chưa tan hết, khi gió thổi qua nhìn giống hệt vết đao chém.

Thu Khương bất giác xoa xoa tay rồi thủ thỉ một câu lạnh quá, không hổ là “lãnh” cung của những cơ thiếp bị vứt bỏ. Tất cả cơ thiếp của Phong Tiểu Nhã cưới vào phủ chưa được mấy ngày đã bị đưa lên núi Vân Mộng, vậy thì rốt cuộc núi Vân Mộng là nơi như thế nào? Những cơ thiếp kia còn sống ở đây không? Hay là đã thay đổi ngoại hình tái sinh một cuốc sống mới?

Dù có như thế nào đi nữa thì trong một chốc nàng cũng không thể chạy trốn khỏi Ngọc kinh, nếu muốn ẩn nấp ở một nơi nào đó thì Đào Hạc sơn trang chính là nơi lựa chọn tốt nhất.

Cuối cùng, nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất.

Nhưng khi nàng tìm thấy núi Vân Mộng lại chẳng thể ngờ được cửa đi lên núi lại chính là khu vực săn bắn của hoàng gia, có thị vệ của thiên tử canh gác, dân thường khó mà bước vào được.

Thu Khương tốn không ít công sức mới có thể đánh lừa được những tên thị vệ đó, nhân cơ hội trèo lên núi. Khi đi đến trước cửa sơn trang nhìn tới nhìn lui một hồi, thấy không có ai mới nhảy qua tường rào.

Bên trong tường rào là một cái sân rất lớn, nhưng chỉ trồng duy nhất một loại cây – cây tùng, ngoài nó ra thì xung quanh hoang vắng, cảnh vật tiêu điều, khác xa với Thảo Mộc cư có Hồng lâu, thác nước được xây dựng tinh xảo.

Thu Khương kiên nhẫn chờ đợi một lúc lâu, cuối cùng cũng nhìn thấy một ông lão xách một cái giỏ bước qua.

Ông lão béo béo lùn lùn, thường xuyên ho khan, thời tiết lạnh như thế mà vẫn rút khăn tay ra lau mồ hôi, bước đi nặng nề, nhìn bộ dạng không hề biết võ công. Thu Khương lập tức đi theo.

Nàng nhìn thấy ông ta bước vào trước một căn phòng nhỏ hướng đông bắc, đẩy cửa phòng ra, bên trong là một phòng bếp.

Ông lão béo mở chiếc giỏ, lấy một nắm quế hồi, mấy quả trứng gà, một túi hạt kê, bắt đầu nhóm lửa nấu ăn.

Thu Khương nhìn thoáng qua, không nhận ra có điều gì khác lạ nên lập tức rời đi.

Sơn trang rất lớn, chia làm tám nội viện. Thu Khương đều đi khám xét toàn bộ, nhưng trong nhà đều trống không, quả thật những cơ thiếp kia không có ở đây.

Cuối cùng nàng quay trở về phòng bếp, mùi hương trứng gà hoà quyện với quế hồi bay lên thơm lừng.

Ông lão béo khiêng một cái bàn nhỏ ra, đặt xuống dưới hiên, sau đó lấy thêm hai cái đệm.

Thu Khương nhìn đến đây, trong đầu xuất hiện cảnh giác, vừa định thối lui thì ông lão béo đã lên tiếng: “Khách từ xa tới, dừng lại dùng cơm đã rồi đi.”

Thu Khương đứng im, ngừng thở.

Ông lão béo đặt đĩa trứng gà xào quế hồi lên bàn, múc thêm hai chén cơm, đặt hai đôi đũa xuống, bày hết lên bàn sau đó mới ngồi xuống lấy khăn lau tay.

Thu Khương nhìn đến đây, mắt ánh lên, từ nơi đang trốn bước ra ngoài.

Ông lão béo nhìn nàng mỉm cười. Ông ta có một khuôn mặt rất đổi hiền lành, khi cười lên giống hệt Phật tổ Di Lặc. Vậy nên Thu Khương đoán được thân phận của ông lão.

Nàng ngồi đối diện với người đó.

Ông lão béo giơ tay ra làm tư thế mời, sau đó bắt đầu ăn.

Thu Khương nhìn thấy ông lão ăn đến say mê, nhận thấy thôi được rồi, tới đâu hay tới đó, rồi nâng đũa.

Thức ăn vừa đưa vào miệng, đầu lưỡi chợt ngây ra.

Thu Khương vô cùng ngạc nhiên. Không ngờ chỉ với những nguyên liệu đơn giản mà có thể nấu ra một món ăn thơm ngon đến vậy!

“Có muốn biết bí quyết không?” Ông lão béo mỉm cười hỏi nàng.

“Xin rửa tai lắng nghe.”

“Thêm một chút rượu.” Ông lão béo lấy một bầu rượu từ sau lưng ra, lắc lắc: “Thêm hai giọt có thể tăng thêm mùi hương.”

Thu Khương nhìn chằm chằm vào bầu rượu kia.

Ông lão béo lại cười: “Nếm thử không?”

“Ta đi lấy ly.” Thu Khương chạy vào phòng bếp lấy ra cái chén uống rượu. Riêng với chuyện uống rượu thì từ trước đến nay nàng luôn hào hứng.

Ông lão béo rót đầy ly cho nàng. Hai người nâng chén cùng nhau uống.

Rượu vừa nuốt xuống họng, đôi mắt đã si mê, Thu Khương khen: “Đây mới đúng là rượu! Cảm giác say nồng như thiêu như đốt!”

“Không sai! Nào!” Ông lão béo uống một ngụm, sau đó lại ho khan, vừa ho vừa giải thích: “Đây là bệnh cũ của ta, mới uống chút rượu đã khụ khụ rồi.”

Thu Khương vừa định nói thì ông lão đã lên tiếng: “Nếu cô nương khuyên ta kiêng rượu vậy thì ta không mời cô nương uống rượu nữa.”

Thu Khương mỉm cười: “Khuyên người kiêng rượu khác nào khuyên người bỏ vợ, ta không làm chuyện mất vui như vậy.”

Ông lão béo nghe thấy vậy thì vô cùng vui vẻ, nhanh chóng nâng chén: “Nói rất đúng! Mời cô nương!”

Thu Khương ngẩng đầu uống hết một ngụm rồi gắp một miếng thức ăn, cảm thấy thú vui trong cuộc sống chính là những việc như thế này.

“Con dâu à, nghe nói con trai ta vẫn luôn đi tìm con.” Ông lão béo vừa ho khan vừa không để tâm nói ra.

Ánh mắt của Thu Khương ánh lên, mỉm cười: “Đúng thế, công công.”

Người mà có khuôn mặt mỗi khi cười lên rất giống phật Di Lặc này thật sự không là ai khác mà chính là đệ nhất danh thần của Đại Yên – Phong Nhạc Thiên, cha của Phong Tiểu Nhã.

“Muốn quay về sao?”

“Không thì sao đây!”

Phong Nhạc Thiên rót cho nàng một chén đầy: “Thứ cho ta lắm chuyện có thể hỏi lí do vì sao không?”

“Ngài ấy không hợp phòng với con.”

Ngay lập tức Phong Nhạc Thiên bị ho đến sặc sụa nhưng lúc này là sặc vì rượu.

Thu Khương cười tủm tỉm nhìn ông lão.

Phong Nhạc Thiên khó khăn lắm mới ngừng ho được, thở dài: “Đúng là do con trai của ta sai. Cơ thể của nó…ai.”

“Ngài ấy bị bệnh gì vậy?”

“Trúng độc.”

Thu Khương ngây ra, thật sự là nàng chỉ buột miệng hỏi, vốn chẳng hy vọng Phong Nhạc Thiên sẽ nói cho nàng. Rốt cuộc Phong Tiểu Nhã bị bệnh gì, hơn nữa thân mang bệnh tật mà sao còn có thể có võ công cao cường như vậy, Như Ý môn đã điều tra rất nhiều năm nhưng không hề có thông tin gì. Không ngờ, Phong Nhạc Thiên lại trả lời thẳng thắn như vậy, hơn nữa không thể ngờ được là trúng độc.

“Không phải bị bệnh xương thuỷ tinh hay sao?”

“Có thể coi là vậy. Khi mẫu thân nó mang thai nó đã bị người ta hạ độc, mẫu thân nó liều mạng sinh hạ rồi nhắm mắt xuôi tay. Lúc nó được sinh ra thì độc tố đã ngấm vào trong xương tuỷ, không giải được. Hơn nữa, theo thời gian trưởng thành, xương cốt càng lúc càng mềm, cuối cùng cả cơ thể sẽ tê liệt.”

Thu Khương nhìn chằm chằm ông lão: “Vậy… làm sao mới có thể chữa khỏi?”

Phong Nhạc Thiên tự mình rót đầy ly, hớp một ngụm rồi chậm rãi nói: “Ta tìm sáu vị cao thủ, truyền sáu nguồn nội lực vào người nó, khống chế đúng mười hai mạch, giúp nó có thể cử động…”

Thu Khương sợ ngây người.

Phong Nhạc Thiên chớp mắt: “Nghe có điên không?”

“Chưa từng nghe nói!”

“Đúng vậy, lúc trước mọi người đều thấy ý kiến của ta rất kỳ lạ, không có khả năng thực hiện, chính bản thân Tiểu Nhã cũng cảm thấy không có khả năng. Duy chỉ có một người tin ta có thể làm được.”

“Ai?”

“Một đứa trẻ. Họ Giang, tên Giang. Gọi là Giang Giang.”

Thu Khương nhíu mày một chút, từ trong tâm trí nhớ lại cái tên này – Giang Giang? Sao lại cảm giác như đã từng nghe qua?

“Là vị hôn thê thuở nhỏ của Tiểu Nhã.”

“Thuở nhỏ ư?” Ai nấy cũng biết sau đó Phong Tiểu Nhã cưới Cung Tiểu Tuệ làm chính thê chứ không phải là Giang Giang.

“Đúng. Nàng ấy đã mất tích. Ngày mười hai tháng mười hai mười năm trước, bị lạc ở Hạnh Xuyên.” Phong Nhạc Thiên nhìn nàng, ánh mắt giống như nhìn thấu qua nàng thấy một con người khác.

Trong nháy mắt, trong đôi mắt của ông lão hiện lên cảm xúc đau đớn, thương xót và sự tuyệt vọng y hệt với biểu hiện của Phong Tiểu Nhã.

Thu Khương nhìn thấy ánh mắt đó, trái tim bỗng nhiên đập mạnh, một suy nghĩ vô cùng hoang đường hiện lên trong tâm trí, bởi vì quá hoang đường nên cả cơ thể nàng không điều khiển được mà run lên.

Không, không, không!

Không thể nào!

***

Ngày mười hai tháng mười hai, đó là một ngày đặc biệt của Ngọc Kinh ở Yên quốc. Bên ngoài Hạnh xuyên băng kết thành tảng, mọi người dân đều tụ tập, đứng trên băng, thả đèn trời, nguyện cầu một năm mới mưa thuận gió hoà, vạn sự như ý.

Đây là phong tục bắt nguồn từ mười năm trước.

Mười năm trước, đứa con yêu thương Phong Tiểu Nhã của Thừa tướng Phong Nhạc Thiên bị mắc bệnh nan y, mạng sống như đèn dầu trước gió, sau khi tin tức lan rộng ra, toàn bộ người dân đều thi nhau đến đây cầu phúc cho Phong Tiểu Nhã.

Đêm hôm đó, trên sông Hạnh xuyên có khoảng hơn một nghìn người có mặt.

Ngày hôm sau, như một kỳ tích, bệnh của Phong Tiểu Nhã dần chuyển biến tốt.

Nhân dịp này, mọi người đều thấy việc cầu phúc có tác dụng, một truyền mười, mười truyền trăm. Dần dà, ngày mười hai tháng mười hai hằng năm, bách dân bá tính đều đến Hạnh xuyên thả đèn trời cầu nguyện.

Nhưng riêng với Phong Tiểu Nhã, ngày mười hai tháng mười hai lại là một cơn ác mộng.

Buối tối hôm đó, vị hôn thê Giang Giang của hắn cùng người nhà cũng đi đến Hạnh xuyên cầu nguyện nhưng do người quá đông nên bị lạc nhau, đến nay không rõ tung tích.

Từ lâu, Phong Nhạc Thiên đã có suy nghĩ cáo lão hồi hương, không vướng bận chuyện triều chính, vậy nên khi chọn nhà thông gia cho con trai cũng chọn gia đình rất bình thường, ông nội là thái y đã xin về hưu, phụ thân thì lập một cửa hàng bán thuốc ở kinh thành, có một cô con gái nhỏ tên là Giang Giang, nhỏ hơn Phong Tiểu Nhã một tuổi.

Giang Giang rất thông minh, bảy tuổi đã tới của hàng giúp gia đình bốc thuốc. Vì Phong Tiểu Nhã bẩm sinh đã mang bệnh, quanh năm phải uống thuốc, cửa hàng thuốc lắm khi bận rộn không có thời gian nên nhờ con gái đưa thuốc đến.

Thường xuyên đi tới đi lui nên quen biết nhau.

Phong Nhạc Thiên rất yêu quý cô nương nhỏ bé thông minh lanh lợi này, có lần trêu đùa nói: “Nếu sau này con trai của ta khỏi bệnh, đến nhà xin cưới cô nương làm vợ, cô nương có đồng ý không?”