Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 45

45

Trấn Ô Long Minh Châu giúp gái nghèo

Miếu Quan Đế lệnh xuống giết quan ác

Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu ngày nào cũng vừa đi, vừa nói chuyện nên cũng không thấy mệt. Khoảng mười ngày, đã qua phủ Chương Đức, đến địa phận Trịnh Châu. Hôm đó đi một ngày, nhìn thấy mặt trời đã lặn xuống núi xanh, Ngũ Thứ Hữu ngồi trên ngựa cười nói: “Dưới kia ngoài hiệu úy, tướng võ, còn có mấy chục người đi bộ, kẻ no không biết người đói, người cưỡi ngựa, không cảm thấy cái mệt của người đi bộ, tới lúc phải tìm chỗ nghỉ chân rồi. Minh Châu lấy roi ngựa chỉ về phía trước, nói: “Phía trước một thị trấn lớn, em vào trước xem sao?”

Ngũ Thứ Hữu nói: “Chú là Khâm sai, đi vào trấn, người ồn ào đến cung phụng chú, ta không chịu được! Chú cứ đi phần chú, để lại cho ta hai người hầu, ta sẽ nghỉ ở trong ngôi miếu rách bên ngoài trấn này.”

“Đại ca sao lại phân chia như vậy!” Minh Châu vội cười nói. “Em đây cứ theo anh thôi.” Nói xong liền xuống ngựa trước, đỡ Ngũ Thứ Hữu xuống ngựa, sắp xếp cho quân sĩ tùy tùng nghỉ ngơi bên ngoài. Hai người ở trong chính điện, lệnh quân sĩ hiệu úy nghỉ ở hành lang hai bên tấm bia. Tham tướng Vương đi cùng nghỉ ở trước hiên điện lớn, sau một lúc vào bẩm với Minh Châu: “Không có gì ăn được cả, xin đại nhân cho biết có nên vào trấn kiếm một ít thức ăn?”

Minh Châu nói: “Không cần, đều có mang theo lương khô, cứ ăn thế là được, các ngươi quấy rầy dân là không xong với ta đâu!”

Ngũ Thứ Hữu rất hài lòng với cách xử trí của Minh Châu. Đợi mọi người lui cả ra, cởi ủng, đặt chân trên bàn cho mạch máu lưu thông, cười nói: “Chú em, mọi việc chú đều không cho quấy rầy dân, làm như thế là tốt, ta không ăn cơm cũng vui vẻ.” Minh Châu cười hì hì: “Ăn hay không ăn, chỉ cần không quấy dân là được!” Vừa nói vừa lấy trong túi ngựa ra một bọc vải, mở ra xem thấy có cơm, tôm rán, cua rang khô, và một gói ruốc thịt bò! Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Hiền đệ, chú lo chu toàn quá, quả là có chỗ hơn người.”

Hai người ăn xong cơm, trời đã tối đen. Những ngôi sao lạnh thưa thớt lóe sáng trên bầu trời mênh mông xanh ngắt. Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Chú Minh, sắp tới chúng ta phải chia tay rồi, chú phải đi tiếp một chặng đường nữa, ngày mai đến bên bờ Hoàng Hà, ta đi về phía đông, chẳng lẽ chú cũng phải đi theo sao?”

Minh Châu nghe hồi lâu không nói, Ngũ Thứ Hữu biết anh không nỡ, liền cười nói: “Ngàn dặm tiễn người, vẫn phải có hồi giã biệt. Việc đó có gì buồn, chi bằng nhân buổi trời đẹp chúng ta ra ngoài dạo một lát” Minh Châu nói: “Được, chúng ta ra ngoài đi.” Rồi không gọi tùy tùng, hai người thay quần áo thường dắt nhau vào trấn.

Thị trấn này khá lớn, tuy là ban đêm, một dãy phố bày hai hàng bán bánh nướng, vằn thắn, đậu phụ chiên, trứng gà rán, không thiếu thứ gì. Minh Châu mua hai gói hạt dưa ngũ hương, đưa cho Ngũ Thứ Hữu một gói, nói: “Đại ca, chúng ta vào trong xem đi.” Ngũ Thứ Hữu hỏi ông già bán hạt dưa: “Thưa cụ, đây là thị trấn gì?”

“Trấn Ô Long.” Ông cụ nhiệt tình cười đáp, “Kể ra thị trấn này còn lớn hơn thành huyện, từ đầu này tới đầu kia đi bộ hết một canh giờ!”

“Cuộc sống cũng khá chứ?” Minh Châu hỏi.

Ông già than rằng: “Có tiền thì được, không tiền thì sống không nổi.”

Câu này coi như chưa trả lời. Hai người nhìn nhau cười, lấy hạt dưa vừa đi vừa cắn, nghĩ sẽ đi một vòng xuống phía nam rồi trở về lúc nghỉ ngơi là vừa.

Đi qua ngã tư náo nhiệt nhất, nhìn xuống phía nam tối mò mò không có gì để xem. Ngũ Thứ Hữu nói: “Trời lạnh rồi, chúng ta quay về thôi.” Minh Châu gật đầu đang định trả lời, bỗng nghe phía tây có tiếng đàn réo rắt đập vào tai. Trong đêm trăng mờ thu muộn này, âm thanh cứ nhởn nhơ vang lên trong không trung làm tăng thêm vẻ êm đềm tĩnh mịch. Minh Châu nói: “Hình như hát nói Hà Nam, trước nay nghe nói điệu hát nói đệm đàn trụy phổ biến ở Nam Dương, Trịnh Châu, không ngờ ở đây cũng có tài tử đàn trụy cừ khôi!” Bèn kéo tay Ngũ Thứ Hữu đi về hướng tây tìm chỗ phát ra tiếng đàn.

Đi một đoạn mấy trăm bước, quả nhiên thấy một quán trà, mặt trước chỉ có hai gian, bên trong liền nhau làm thành trường hát, có bảy tám chiếc bàn bát tiên đặt ngay ngắn, khoảng trên ba chục người đang ngồi uống trà nghe hát. Trên bục diễn, một già một trẻ, ông lão mù cầm cây đàn ba dây đệm nhạc. Một cô gái trẻ mặc áo trắng, không son phấn, tay giữ cây đàn tranh vừa đàn vừa hát:

Từ Tam quốc đến nay, chinh chiến không ngừng, Tào A Man thế nghiêng thiên hạ, muốn giành triều đình. Có một hoàng thúc, tự xưng Huyền Đức, đi Nam Dương ba lần thỉnh Ngọa Long Gia Cát Lượng

Minh Châu vừa nghe đã biết, xong đoạn mở đầu, bây giờ mới bắt đầu câu chuyện, liền lặng lẽ lấy hai cái ghế ngồi xuống. Hầu bàn bưng tới hai chung trà, và đặt trước mặt họ một ấm trà rồi nói: “Mỗi ngài chi mười chinh, thoải mái uống, tôi sẽ tiếp thêm nước.”

Minh Châu nói: “Được!” lấy ra một đồng tiền ném cho hầu bàn, “Thưởng cho anh!” Anh hầu bàn gật đầu khom người liên tiếp tạ ơn, một chặp đưa lên hai chiếc khăn nóng vắt ráo nước. “Mời hai vị dùng khăn!”

Minh Châu không trả lời, mắt nhìn chằm chằm lên bục diễn. Ngũ Thứ Hữu phất tay nói, “Không cần đợi hầu, anh cứ đi làm việc của anh. Chúng ta còn nghe kể sách!” Rồi quay mặt qua phía Minh Châu đang nghe say mê nói: “Lời này nghe không tục, chú vừa vào trường hát đã mê mẩn rồi.” Minh Châu nhẹ nhẹ kéo tay Ngũ Thứ Hữu, nói: “Đại ca, anh xem cô gái này giống ai?”

“Hả?” Ngũ Thứ Hữu chú ý nhìn nói, “Nhìn không, ra.”

“Có giống cô Thúy đã chết hay không?”

Ngũ Thứ Hữu xem kỹ lại. Thấy giống cô Thúy ở mày ngài đen nhánh, mắt gợn thu ba, nhưng không có sắc khí tài hoa như cô Thúy. Ông thở dài nói: “Chú em, chú quá tưởng nhớ mà ra thế thôi, ta nghĩ lại giống…” Lời chưa dứt, Minh Châu đã cười: “Đại ca nói vậy chứ em xem không giống.”

Đoạn sách dưới là hai màn “Hội quần anh” và “Cầu gió đông” trong Tam quốc diễn nghĩa. Tuy nhiên vì rất thuộc nên một già một trẻ, lúc chậm lúc nhanh, nói một chặp, hát một chặp, lúc thì ca như đá chẻ, lúc thì thán như ngâm dài, quả thật có sức hấp dẫn kỳ lạ, cho mãi đến lúc tan trường cũng không ai chịu ra về. Ngũ Thứ Hữu than rằng: “Một chỗ nhỏ như thế này cũng có giọng hát hay như vậy, đêm nay coi như không uổng chuyến đi!” Đang nói, lão già cầm cái đồng la nhỏ thu tiền, nhiều người chen nhau đi ra ngoài. Chỉ mấy người phía trước thưởng cho mấy đồng chinh được đâu mấy chục chinh. Lão già đang thở dài thì Minh Châu bước tới, lấy một đĩnh bạc năm lạng đặt nhẹ nhàng vào trong nói: “Chỗ tiền này cho cô gái sắm bộ nữ trang, chỉ hát hay thôi thì chưa được.”

Lúc đó khách đã đi sắp hết, lão già kéo cô gái nói lời vạn phúc, nói một hơi những lời cảm ơn, mới trở ra thu dọn trường hát. Minh Châu cũng đã hết hứng thú, kéo Ngũ Thứ Hữu định đi. Bỗng có một người bên ngoài xông vào, râu dài như lông nhím, chéo áo dài dắt vào lưng quần, không thèm nhìn Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu, tự ý đi thẳng lên trước bục diễn, cười gằn nói: “Đêm nay bắt được con ba ba to, phát tài rồi hả!” Hắn lấy đĩnh bạc, liếc mắt nhìn Minh Châu, ném lên cao chừng nửa thước thu lại trong tay, rồi cho vào túi.

Lão già nghe nói đã biết là ai rồi, vội vái chào, hạ giọng nhỏ nhẹ, cười làm lành nói: “Nhị gia! Chút bạc này là hai vị quan khách cho tiểu nữ sắm đồ nữ trang, kiếm được tiền về, chẳng phải là của lão gia sao? Lần này... lần này...” Ông ậm ừ hồi lâu, không biết nói gì cho phải. Cô gái thì nắm tay kéo lão già lại nói: “Cha! Đừng nói nữa, còn hơi sức thì giữ lại cho ấm người!”

Ngũ Thứ Hữu nghĩ tới đây, bất chợt nổi nóng. Minh Châu thấy Ngũ Thứ Hữu định bước tới nói đạo lý, vội nắm tay kéo lại, ra hiệu nghe xong rồi hãy nói.

“Giỏi a!” Người đó cười nói, “Lông cánh cứng rồi, có kẻ đỡ lưng rồi? Ta bảo cho hay, mười lăm mẫu đất đó, năm trăm lạng bạc cũng không mua được, mà ông...” Hắn đi tới bên cô gái, cười bẩn thỉu, giơ tay bẹo má cô: “Bầu bạn với Nhị gia ba năm, hửm? Đất sẽ thuộc các ngươi...”

Lời chưa dứt, nghe “bạch” một tiếng, một tên đàn ông bị cô gái cho một cái tát nên thân, “Mày thì tốt lành gì? Năm đó còn nghèo hèn hơn chúng ta hàng chục lần! Anh mày lấy tiền bán thân của mẹ mày mua một chức quan, mày mới hùa gió bẻ măng, hung tàn ngang ngược hiếp đáp người ta!” Nói xong kéo tay ông già đi, nhưng bị tên đàn ông chặn lại, Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu vội tiến lên phân giải. Tên đàn ông trừng mắt nói: “Chẳng liên quan gì đến bọn bay. Cút!”

Minh Châu tức giận tái mặt. Năm trước ở Hỷ Phong Khẩu, anh cũng gặp một người như thế này, đã phải chịu thiệt. Thấy tên này biết là một ác bá, bữa nay để cho hắn thoát được thì còn trời đất gì? Nghĩ tới đây, Minh Châu máu nóng sôi lên, giật chiếc áo khoác bên ngoài đứt cả cúc, ném đánh phạch xuống bàn, trợn mắt nói: “Mày ỷ thế ai mà hiếp đáp người ta như vậy?”

“Nói ra mày chết khiếp thôi!” Tên đàn ông gào lên, “Tuần vũ quản không nổi, bộ Lại mò không ra. Cả Trịnh Châu này đông tây năm trăm dặm, bắc nam ba trăm dặm đều do ông quản!” Hắn huýt một tiếng, mấy tên ra dáng quân nhân từ bên ngoài xông vào, quắc mắt nhìn trừng trừng Minh Châu sốt sắng muốn thử sức. Cụ già thấy hai bên định ra tay, run lẩy bẩy bước tới khuyên giải, cô gái thấy hai người sẽ bị ăn đòn cũng tới bên khuyên rằng: “Quan khách không nên tức giận họ, đi mau lên thôi!”

Minh Châu giận dữ muốn làm hung nhưng cố nhịn, nói: “Thế lực mày lớn, không biết đạo lý, ta không thèm chấp.” Nói xong kéo tay Ngũ Thứ Hữu định đi, liền bị một tên lực lưỡng chặn ngang đường: “Thế nào, sợ chứ? Vừa mới muốn đánh lộn, bây giờ đi đâu?”

“Lẽ nào chúng ta đi cũng không được sao?” Ngũ Thứ Hữu ngẩng mặt hỏi. Vừa nói vừa kéo tay tên lực lưỡng, không ngờ hắn mạnh quá, không làm hắn nhúc nhích.

“Tụi bay có tiền mua nụ cười, lại không có tiền mua cơn giận?” Tên lực lưỡng cười gằn nói, “Đã làm cho Nhị gia đây giận thì không thể đi ra không, tụi bay phải đem rượu ra để Nhị gia nguôi giận!”

“Không may rồi!” Minh Châu vỗ vào người, bỗng đổi sắc mặt cười nói: “Mang theo có năm lạng bạc, vừa thưởng hết cả. Chúng ta trở về lấy tiền đem tới cho các anh nguôi giận được không?”

“Hả?,” Tên lực lưỡng đắc ý cười nói. “Thế mới phải chứ!” Nói xong chỉ vào Ngũ Thứ Hữu nói: “Vị này ở đây chuốc rượu, mày về nhà lấy tiền đem tới, không cần nhiều, hai mươi lạng là đủ! “

Minh Châu nghe xong, thở dài một tiếng, ra hiệu cho Ngũ Thứ Hữu rồi phất tay áo ra đi.

Ra đến ngã tư thì sao trên trời đã chuyển dời thay đổi, đã quá nửa đêm, phố dài tối thui, vắng tanh không một bóng người, Minh Châu bỗng thấy nổi da gà. Vừa quanh ra hướng bắc đã thấy Vương Tham tướng đem theo mười mấy tên hiệu úy cầm đuốc đi tới. Bọn họ vốn đã đi ngủ, nghe tiếng hai người đi bộ ra phía ngoài miếu, ai ngờ đến nửa đêm không thấy trở về, Vương Tham tướng sốt ruột, vội dẫn người vào trấn đi tìm. Thấy Minh Châu một mình trở về, thất kinh hỏi: “Tổng Hiến đại nhân, Ngũ tiên sinh đâu?”

“Gặp mấy tên giặc cỏ.” Minh Châu thấy có người tới, tinh thần bỗng phấn chấn, nghiêm giọng bảo: “Đi bắt tất cả những người trong quán trà bên kia đến nghe ta xử!” Nói xong chỉ dẫn hai người tùy tùng vội vã đi về hướng bắc.

Trong quán trà bên này, Ngũ Thứ Hữu đã biết Minh Châu đi tìm viện binh, trong bụng đã vững, bèn bắt chân chữ ngũ thưởng thức trà, một mặt đưa mắt nhìn năm tên đàn ông ngồi hàng ngang. Cụ già và cô gái thu đàn ngồi trên bục diễn, mặt tái mét, lặng im, không biết sẽ xảy ra chuyện gì. Chủ quán và chủ hầu bàn xuôi tay đứng một bên, muốn khuyên mà không dám, chỉ biết cười làm lành châm thêm trà, rồi sai chú hầu bàn: “Đem ít hạt dưa ra cho mấy vị cắn!”

“Cần làm gì thì cứ làm.” Tên Nhị gia mặt sắt đen sì nói, “Bảo chúng nó đưa tiền tới lầu Đức Thắng kêu đem một bàn thức nhắm tới đây, lão gia ở đây uống rượu nghe hát!”

Vừa nói dứt lời, liền nghe một hồi tiếng bàn ghế đổ ngã, Vương Tham tướng đã dẫn người xông vào, rút kiếm ra, hô to: “Trói tất cả lại!” Các hiệu úy thân binh nghe lệnh tản ra, cứ hai người kèm một, định ra tay. Ngũ Thứ Hữu thấy bọn họ ngang bướng định bắt cả cha con ông già hát rong vội ngăn lại: “Không được lỗ mãng! Chủ quán, hầu bàn và hai người hát rong không có tội!”

“Các người là ai?” Tên lực lưỡng bị trói chặt như trói cánh gà, còn gân cổ nói, “Dám đến vuốt râu hùm! Lát nữa rồi hối chẳng kịp đâu!”

Vương Tham tướng chẳng thèm nghe hắn, vừa cho kiếm vào vỏ, vừa nói: “Ta là người thế nào, không thể nói được với tụi súc sinh dơ dáy chúng bay! Dẫn đi!”

Minh Châu đã đứng bên ngoài miếu Quan Đế, mình mặc áo đỏ, đuôi sam quấn trên cổ, tay cầm một cây đại đao, đi qua đi lại đợi người, giống như một tên tướng cướp trên núi. Mấy hiệu úy cũng đều mặc thường phục, cầm đuốc sáng rực đi xuống bậc thềm, Ngũ Thứ Hữu suýt nữa thì bật cười.

“Mi bắt của ta hai con ba ba, ta bắt của mi năm tên lưu manh!”

Minh Châu thấy tên to lớn liền cầm đuốc bước xuống thềm, chỉ tay vào mũi hắn nói: “Mi tên gì, mà dám ức hiếp người như vậy?”

Tên to lớn thấy trong số người bắt hắn có quan quân, lại thấy tình thế như vậy đã phát rét rồi, hắn lắp ba lắp bắp: “Đại vương không nên tức giận, có chuyện hay muốn nói! Tại hạ Phùng Ứng Long, chỉ mang chút ít tiền, nếu muốn lộ phí thì hãy thả chú em này ra, để nó trở về lấy...”

“Giỏi thật!” Minh Châu cười bực dọc, bước tới, lấy dao cắt dây trói một tên nô bộc nói: “Đi đi, mày mà dối trá, thì hãy xem tên này!”Anh cười hì hì đi đến trước mặt một tên bị trói, lấy dao “rẹt, rẹt” cắt phăng hai cái tai, ném xuống đất. “Mi trở về lấy ba ngàn lạng bạc đem tới đây!” Ngũ Thứ Hữu không ngờ Minh Châu ra tay bạo như vậy, bất giác như hít phải một làn hơi lạnh.

Tên to lớn thấy vậy, càng tin là kẻ cướp tống tiền, liền ra hiệu nói: “Mi trở về báo cho Lão thái gia, nói bạn ta cần gấp ba ngàn lạng bạc, lấy đem tới mau. Nếu không đủ, đi tìm đại ca đổi cho mấy cái, có nghe thấy chưa?” Tên kia chỉ dạ một tiếng, rồi chuồn đi ngay.

“Mi coi ta là kẻ cướp!” Minh Châu thấy tên gia bộc đã đi rồi, cười ha hả, nói với Ngũ Thứ Hữu: “Hắn tưởng em đây là kẻ cướp!” Rồi quay mặt sang Phùng Ứng Long nói: “Ta lại là một ông quan!” Rồi sai người khênh ra tấm bảng “túc tịnh hồi tị” (yên lặng né tránh), nói với những người đến hóng chuyện: “Ta đã hỏi biết, Phùng Ứng Long là tên ác bá trấn Ô Long, các người cứ về đi, ngày mai ngay tại đây sẽ phát cáo trạng, có tốt nói tốt, có khổ tố khổ!”

Không ngờ bá tánh nghe nói là quan, mọi người nhìn nhau, bàn tán xì xào một chặp, liền cùng quỳ xuống nói: “Phùng lão gia không phải là người xấu, xin đại nhân gia ơn thả ông ta ra!” Vừa nói vừa khấu đầu.

Việc cầu xin này, không chỉ các hiệu úy kinh ngạc, cả Minh Châu và Ngũ Thứ Hữu cũng thấy bất ngờ. Bây giờ Phùng Ứng Long ngước đầu, dương dương tự đắc. Minh Châu thấy hắn như vậy, lạnh lùng cười nói “Giỏi thật một “lão gia”, té ra cũng là một ông quan! Ngươi có công danh gì mà hiếp đáp bá tánh một vùng thành ra thế này?”

“Thiên tổng sở Thủ ngự Trịnh Châu,” Phùng Ứng Long trở mặt nói, “thế nào?”

“Đã là Thiên tổng, vì sao không ở Trịnh Châu, tới cái trấn nhỏ này làm gì?”

“Ta xin nghỉ về nhà dưỡng bệnh. Thế nào, không được à?”

“Hừm, mi dưỡng bệnh khá thật!” Minh Châu thấy hắn quen bướng bỉnh, nghiến răng, nói: “Vì sao mi cướp năm lạng bạc của cô gái này?”

“Nhà nó mua của ta mười lăm mẫu ruộng đổi tên, phải trả hai trăm lạng bạc, lấy của nó năm lạng ông ngạc nhiên lắm sao?”

Thiên tổng sở Thủ ngự là Tòng ngũ phẩm, Minh Châu có hơi do dự. Bây giờ nghe trong lời hắn có chỗ hở, nghiêm giọng hỏi: “Ruộng đổi tên là đất của nhà Minh trước để lại, đều phải trả lại triều đình, sao ngươi dám tự ý cho vào túi riêng? Ngươi đến làm việc ở đây từ bao giờ?”

“Đến làm việc năm kia.” Phùng Ứng Long chọn câu dễ trả lời, hắn hơi lo lắng. “Ông là quan gì?”

“Hỏi ta làm gì?” Minh Châu lạnh lùng nói, lại hỏi cha con ông lão: “Đất này các ngươi làm ăn từ lúc nào?”

Cụ già sợ sệt không dám trả lời, cô gái sớm đã thấy Minh Châu rất có thế lực, vội quỳ xuống nói: “Năm Thuận Trị thứ mười, nhà chúng tôi chạy loạn tới đây, làm mười lăm mẫu ruộng... nguyên là đất của Phúc Vương gia nhà Minh trước. Tên côn đồ này ỷ thế anh hắn mua chức Thiên tổng, nói ngang là phải nộp năm trăm lạng bạc... tiền thóc thuế triều đình còn khó nộp đủ, làm sao có bấy nhiêu tiền bỏ vào cái thùng không đáy?... Nộp không đủ tiền lời, hắn bắt anh tôi đi lính, cha tôi đứng ra ngăn, bị bọn chúng đánh, làm mù đôi mắt...” Cô gái nói tới đây đã khóc nức nở.

“Chú Minh Châu.” Ngũ Thứ Hữu đứng bên cạnh nói nhỏ, “tên này quả thực là một tên giặc cướp, quyết không thể tha cho nó!” Minh Châu gật đầu, rồi nói: “Cô gái, cô cứ mạnh dạn nói ra, có ta bảo đảm!”

“Khỏi cần tôi nói,” Cô gái chỉ bà con đang quỳ dưới đất nói, “Bà con này đều là người làm chứng, bảo họ nói xem, trước kia Hà đại lão gia chết như thế nào?” Thấy không có ai dám nói gì, cô gái nghẹn ngào nói: “Đều sợ hắn, thì tôi nói vậy! Hà lão gia năm Khang Hy thứ sáu làm Tri huyện Trịnh Châu, ra cáo thị bảo bà con hoãn nộp tiền đất đổi tên. – Chúng tôi bao nhiêu năm mới gặp một ông quan tốt. Hắn, Phùng Ứng Long cấu kết với anh hắn Phùng Khuê Long là Tri phủ Trịnh Châu, làm tiệc đãi khách tại trấn Ô Long, Hà lão gia đêm đó bất ngờ chết ngoài đường! Không có tiền đưa linh cữu Hà lão gia về quê, người nghèo trấn Ô Long lén góp tiền giúp cho Hà Công tử. Các người câm hết rồi sao? Tại sao không dám nói sự thật?”

Việc này rất hệ trọng, không ai dám lên tiếng, trời đêm lạnh trước miếu Quan Đế im lặng như tờ, chỉ nghe văng vẳng từ xa tiếng mèo đêm kêu thảm thiết, trong lòng người nào cũng run sợ. Minh Châu biết nếu không nói rõ thân phận mình thì khó hỏi rõ vụ án, liền bảo: “Trời lạnh rồi, lấy cái áo khoác vàng Thánh thượng ban cho ta!” Trong chốn đồng rộng mênh mông, câu này nghe rõ mồn một, làm bọn Phùng Ứng Long phát run, bà con há hốc mồm kinh ngạc.

Một chốc, trống nhạc nổi lên. Minh Châu mặc áo khoác vàng vào, bên trong ló ra chiếc áo dài Giang Hải, đầu đội mũ đỏ lông trĩ xanh. Tùy tùng lấy trong miếu đem ra hai ghế đá, phân chia cho Ngũ Thứ Hữu ngồi. Bà con trong trấn đang đêm nghe tiếng trống nhạc từng hồi, người đến xem ngày càng đông. Dân đen ở nơi xa xôi hoang vắng chưa được thấy cảnh này bao giờ, đều quỳ xuống khấu đầu cùng hô to: “Thanh thiên đại lão gia!”

Nghe lời này, lòng Minh Châu nóng ran lên, anh từ từ bước xuống thềm hai tay đỡ dậy nói: “Các vị bô lão, xin mời đứng cả lên!” Rồi quay mặt nói với Phùng Ứng Long: “Chẳng phải mi muốn hỏi ta là ai sao? Bản hiến là giá Tiền thị vệ bậc nhất của đương kim Thiên tử, Tả đô Ngự sử Minh Châu, phụng Thánh thượng khâm sai đi công cán Tây Lộ. Đêm nay đi qua nơi này, thấy mi làm việc xấu xa, nên phải trừ hại cho dân!”

Nghe mấy câu này, bà con bên dưới hoan hô dậy trời, tiếng hô như sấm rền “Hoàng thượng vạn tuế! Vạn vạn tuế!” Phùng Ứng Long mặt xám ngắt ngã khuỵu xuống đất.

Minh Châu càng phấn chấn tinh thần, chỉ Phùng Ứng Long nói: “Ta giết mi như giết một con chó.” Rồi nói với bà con: “Bà con có gì oan ức cứ tố cáo hết đi, ta đảm bảo cho bà con!” Bây giờ bà con nhảy nhót hò reo, ùn ùn bước lên tố cáo tội ác của Phùng Ứng Long: Chỉ ăn tiền mờ ám ruộng đổi tên đã bức tử mười ba mạng người, chưa kể những tội ác hắn cưỡng hiếp con gái dân lành, bắt bớ dân đinh nam, khoanh đất để chiếm tài sản. Mãi đến lúc trời sáng, mới làm rõ những tội trạng chủ yếu của hắn.

“Thỉnh kiếm Thiên tử!” Minh Châu hô to một tiếng, Ngũ Thứ Hữu vội đứng lên tránh ra. Chỉ thấy hai hiệu úy khênh ra một giá gỗ, trên cắm nghiêm chỉnh một thanh bảo kiếm vỏ chạm rồng vàng, chuỗi ngà khảm ngọc. Đặt bảo kiếm trên thềm để cúng lạy, Minh Châu chậm rãi quay người làm đại lễ ba quỳ chín lạy, đứng lên nói với Phùng Ứng Long: “Chỉ cần mười ba mạng người thì chết không có gì oan uổng.” Anh quay người sai hiệu úy: “Tôi phụng Thánh mệnh, thay trời tuần hành, hôm nay tại đây thanh trừ giặc, các ngươi làm cho tốt!”

Các hiệu úy nghe lệnh, đồng thanh hô to “Dạ!” Tiếp theo một hồi kèn vang lên, ba tiếng pháo nổ đùng đùng đùng, Minh Châu phất tay, hai tên hiệu úy bước lên, kèm hai bên Phùng Ứng Long kéo lên mấy bước, tay cầm đại đao, “phựt” một tiếng đầu rơi xuống đất. Bây giờ Minh Châu mới cảm thấy khí ác giảm đi một nửa, chỉ mấy tên lâu la của Phùng Ứng Long nói: “Tụi bay thế nào?”

Ba người kinh hãi hồn bất phụ thể, chỉ phải hai tay bị trói, cứ dập đầu như tế sao: “Xin lão gia tha mạng!” Minh Châu căm ghét định làm tới, Ngũ Thứ Hữu ngồi bên nói nhỏ: “Mấy người này tội chưa đáng chết, chỉ đánh mấy hèo là đủ.”

“Được!” Minh Châu nói to: “Kéo đi, mỗi tên cho bốn mươi hèo, bảo chúng nhớ đời ngày này!”

Bà con bao nhiêu năm oan ức nay được rửa hờn, ai cũng nhìn trời nói cảm ơn. Có người không ngớt niệm Phật, có người vây lại hỏi thăm chức tước Minh Châu, có người xúm lại hóng chuyện, có số cực kỳ vô lại đi lục xác Phùng Ứng Long tìm bạc. Ồn ào mãi một hồi rất lâu mới giải tán ai về nhà nấy. Ngũ Thứ Hữu lấy năm mươi lạng bạc cho cha con ông già.

“Khoái thật!” Minh Châu trở về đại điện, ngồi bên chiếc bàn phật, cởi mũ đặt lên bàn, ngước đầu hớp một ngụm nước trà lạnh “Không ngờ đêm qua anh em ta cùng diễn màn kịch Trấn Ô Long?” Nói xong cười sảng khoái.

“Chú em, chú có chỗ tính toán chưa đúng!” Ngũ Thứ Hữu bỗng nói. Thấy Minh Châu ngạc nhiên bèn nói tiếp, “Không có khẩu cung, không có chuẩn y,” Ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp, “anh hắn lại là Tri phủ, hôm nay sẽ đến gây khó khăn, chú phải xử lý thỏa đáng mới được.”

“Cứ bằng vào chuyện anh em hắn cùng mưu giết chết Tri huyện Hà, còn dám tới đòi khẩu cung?” Minh Châu cười nói, “Chẳng ngại gì, Phùng Khuê Long hôm nay không tới, ngày mai ắt sẽ tới, anh cứ xem thằng em này làm. Em thả tên đó đi, là để hắn báo tin. Chỉ sợ hắn không tới, phải giở bút mực cửa quan thì phiền phức lắm!”

“Điều đó ta biết, dù có kiện cửa quan, chú cũng thắng là chắc.” Ngũ Thứ Hữu nói chậm rãi, “Ta muốn nói đường làm quan của chú còn dài, hôm nay gặp việc, cần phải bình tĩnh mới được.” Đây quả là những lời vàng ngọc, Minh Châu vô cùng khâm phục nói: “Em xin ghi nhớ.”

Lúc này mặt trời đã lên ba con sào, sau khi ăn điểm tâm, Minh Châu dứt khoát đề bảng cáo thị, nói nghỉ ba ngày để thăm hỏi dân tình. Việc giết người đêm qua làm náo động cả trấn, bà con già trẻ dắt nhau tới xem, trước cái miếu hỏng, người ta chen nhau như trong ngày hội. Minh Châu sai người đem thanh la đi, vừa đánh thanh la vừa rao: “Khâm sai đại nhân, nghỉ ngơi ở đây ba ngày, bà con ai có oan ức cần bày tỏ, thì đến thẳng miếu Quan Đế!”

Đang ồn ào, đám người phía trước bỗng tránh ra một lối đi. Một cái kiệu xanh bốn người khênh từ từ đi qua, nghi trượng bảng hiệu phía trước dẹp hết, chỉ có mấy tên nha dịch lấy tay đẩy mọi người tránh đường cho kiệu đi. Tri phủ Trịnh Châu Phùng Khuê Long đã đến.

Số là đêm qua hắn được tin báo, em hắn Phùng Ứng Long đã bị thổ phỉ bắt cóc tại trấn Ô Long, liền đến doanh trại hỏa tốc điểm lấy hai trăm binh sĩ, tự mình dẫn đầu đi vây bắt. Đến trấn, hắn mới nghe nói là có Khâm sai đến, mới vội vàng bảo binh lính và tùy tùng trở về, tự mình ngồi kiệu đi gặp Minh Châu. Bà con múa tay khoa chân, tốp năm tốp ba bàn tán sôi nổi, định cử người khấu kiến Khâm sai, thấy hắn tới, bèn dừng lại, ngẩn tò te đứng nhìn hắn đi vào trong miếu.

Minh Châu đang ở trên đại điện cùng Ngũ Thứ Hữu bàn chuyện trên trời dưới đất, bỗng thấy một hiệu úy bước vào cầm một bản lý lịch viết tay nói: “Tri phủ Trịnh Châu Phùng Khuê Long xin gặp Tổng Hiến đại nhân!”

“Cho ông ta vào!” Minh Châu nghiêm trang nói. Ngũ Thứ Hữu nói: “Các người quan viên làm việc với nhau, ta dân thường xin tránh đi một lát.” Minh Châu vội nói: “Không cần đâu, hắn là cái giống gì mà đại ca phải tránh đi!”

Vừa nói xong thì Phùng Khuê Long đã bước vào điện. Ngũ Thứ Hữu chú ý nhìn, người này thân hình ngũ đoản, khuôn mặt vuông, có vẻ sắc sảo. Tên Phùng Khuê Long này nói tên họ, chức vụ, rồi ngước mặt vung hai cánh tay áo, làm lễ theo nghi thức phủ đình gặp Đốc phủ. Theo thủ tục, Minh Châu phải miễn lễ đỡ dậy, nhưng anh ngồi ngay ngắn bất động. Phùng Khuê Long thì không chịu vái lạy lần nữa, lòng hai người đã có mối hiềm khích.

“Mời ngồi, dâng trà!” Minh Châu lạnh lùng bảo, cố ý hỏi, “Túc hạ là Tri phủ Trịnh Châu?”

“Không dám.” Phùng Khuê Long cúi người đáp, “Công văn đã nhận lâu rồi, nhưng không ngờ Khâm sai đến nhanh như vậy, chưa kịp nghênh đón, mong xin tha tội!” Nói xong quay sang hỏi: “Đại nhân tối hôm qua thỉnh kiếm Thiên tử giết chết Phùng Ứng Long của tệ phủ, nhưng không biết hắn phạm tội gì?”

Minh Châu không ngờ hắn dám tấn công trước, ngớ ra một lúc rồi cười nói: “Ta giết hắn, tất nhiên có lý do để giết. Thế nào, ta giết hắn không được sao?”

“Không phải nói vậy, Phùng Ứng Long hiện là chức quan ngũ phẩm, lại trực tiếp thúc việc giao nộp bạc đất đổi tên, cũng không phải là kẻ bất trị. Đại nhân có giết hắn thì cũng phải nói rõ ràng, nếu không bản chức không biết bẩm lên trên thế nào.”

“Bá tính đói khổ đã nhiều, làm gì có tiền nộp tiền đất đổi tên? Bản đại thần đã có sớ tâu rõ Thánh thượng thỉnh chỉ bãi miễn tất cả!”

“Thỉnh chỉ là thỉnh chỉ, còn bãi miễn là bãi miễn.” Phùng Khuê Long cao giọng trả lời. “Hiện giờ chưa có ý chỉ, túc hạ mang tội tùy tiện giết quan chức, bản chức không thể không nghiêm trị!”

Ngũ Thứ Hữu bỗng nhiên cười ha hả, nói: “Dùng thuốc độc giết chết huyện lệnh họ Hà, bức tử mười ba mạng người, cũng là phụng mệnh làm chăng?”

“Cái gì họ Hà, cái gì mười ba mạng người?” Phùng Khuê Long không chịu lép. “Ta nói chuyện với đại nhân, ngươi là ai?”

“Hỏi là hỏi, còn là ai, không phải việc ngươi cần hỏi!” Minh Châu tức giận: “Quân bay, không cho ngồi!” Hai tên hiệu úy tiến tới, đẩy Phùng Khuê Long ngã dúi, lấy cái ghế đi. Lại nghe Minh Châu bảo: “Cởi mũ hắn ra!”

“Khoan!” Phùng Khuê Long vô cùng xảo quyệt, hai tay giang ra hô một tiếng: “Đứa nào dám? Ta là quan Tây tuyển!” “Tây tuyển” là chỉ quan viên văn võ do Bình Tây vương Ngô Tam Quế chọn phái tới. Những người này không thuộc quản lý của hai bộ Lại, bộ Hình của triều đình. Ngô Tam Quế có năm mươi ba tướng lĩnh đại quân và hơn một vạn quân chiếm cứ Vân Nam, nhất cử nhất động là chấn động cả trong triều ngoài cõi, nên Khang Hy phải nhượng hắn ba phần. Minh Châu bất giác chau mày, nhưng việc đã tới nước này, không còn đường quay lại, cũng hơi sương mặt. Lòng đã quyết, bèn quát to: “Tên nô tài điên khùng! Bình Tây vương lớn hơn triều đình à? Bắt lấy!” Các hiệu úy xông lên. Phùng Khuê Long điên cuồng vùng vẫy chửi mắng, khí thế hung hăng xông tới trước. Minh Châu túng thế, lấy thanh bảo kiếm trên giá đâm mạnh vào nách hắn, đâm thẳng vào tim có hơn nửa thước. Ngũ Thứ Hữu bất giác nhắm mắt lại.

Phùng Khuê Long chếnh choáng không ngã, hai tay nắm chuôi kiếm trước ngực, mồm ộc ra máu, lấy hết sức nói: “Mi... mi... độc ác!”

“Không độc không là trượng phu!” Minh Châu cười nói. “Giết mi không oan, bà con vui mừng! Đỡ phải tốn bút mực kiện lên quan.” Nói xong rút mạnh thanh kiếm, máu chảy như suối. Phùng Khuê Long kêu thảm một tiếng đổ vật xuống đất, không kịp giãy giụa đã tắt thở. Bọn tùy tùng của Phùng Khuê Long thấy cảnh đó mặt không còn hột máu. Vương Tham tướng nhìn một thư sinh phong lưu nho nhã mà mạnh tay như vậy, cũng thấy hãi trong lòng.

Minh Châu coi như không có chuyện gì, rút trong túi ra một mảnh giấy quyến lau sạch dấu máu trên kiếm, nói: “Đã thật, đã thật! Một ngày một đêm liên tiếp diệt trừ hai tên hại dân, Thánh thượng nhất định phải khen thưởng ta!”

Mọi người lui ra rồi, Ngũ Thứ Hữu vẫn chưa hoàn hồn, nói với Minh Châu: “Hiền đệ, nay ta mới biết em có tài lược và dũng khí như vậy! So ra ngu huynh chỉ là một tên hủ nho.” Minh Châu cười to: “Em đâu có tài lược, dũng khí gì! Chút thần khí này chỉ học được khi cùng Thánh thượng nghe đại ca giảng kinh sử. Đại ca là người Thánh hiền, nói mà không làm, tiểu đệ tay phải cầm đao kiếm, là thuộc loại hạ lưu rồi.” Nói xong mỉm cười, Ngũ Thứ Hữu thì lặng im không nói, hồi lâu mới lên tiếng: “Có điều ra tay hơi quá ác.”

“Tay không mạnh thì làm sao có được thiên hạ?” Minh Châu cười nói, “Đây cũng là tâm đắc khi đọc sách. Lần này bắt Ngao Bái, nếu không phải tiểu đệ hiến kế, đặt lưới sắt trong cung Dục Khánh, dẫu anh Hổ Thần tài tuyệt luân, e còn phải khó nhọc nhiều nữa!”

Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu dừng ba ngày ở trấn Ô Long, lại ghi được tỉ mỉ tội trạng của hai tên họ Phùng bổ sung vào văn sách, mới viết tấu, sáu trăm dặm đưa gấp về kinh, thỉnh chỉ phán xử. Mọi việc làm xong, Ngũ Thứ Hữu đòi men theo đường cũ bờ Hoàng Hà đi về hướng đông. Minh Châu lưu luyến nói: “Có lẽ triều đình giáng chỉ phán xử em, đại ca quyết tâm muốn đi, thì hẵng đợi mấy ngày nữa có sao đâu?” Trong lòng Ngũ Thứ Hữu cũng lo lắng vấn đề này không được rõ ràng, nên cũng dứt khoát ở thêm mấy ngày.

Đầu ngày thứ sáu, chiếu lệnh đã xuống, một tờ công khai, một tờ đình ký.

Ngũ Thứ Hữu xem xong tờ chiếu dụ công khai, mỉm cười nói: “Tờ ân chỉ này, bãi miễn tiền ruộng đổi tên, thật là công đức vô lượng! Thánh sáng như gương, từ nay thiên hạ có thể được hưởng thái bình hưng thịnh!”

Minh Châu nói: “Đại ca đừng mừng vội, chúng ta xem tờ đình ký đã, tờ này xử tội em đây!” Mở ra xem, càng mừng hết nói. Nguyên là Khang Hy tự tay phê son, phía trước nói lại những lời Minh Châu tự xin được xử tội, phía sau lời phê son như sau:

Cứ theo Ngự sử này chưa qua thỉnh chỉ đã giết quan chức, vốn nên cân nhắc xử phạt để làm sáng tỏ luật nước. Nghĩ việc trừ bạo trong khoảnh khắc, diệt nghịch khi mới nẩy chồi, ý chỉ ban đầu là tốt! Theo lệnh cứ như chỉ trước đi về tây, trên đường tra xét tình hình quan lại, phải có sớ tấu gấp cho Trẫm. Việc xin xử tội nay khỏi bàn.

Xem tới đây, Minh Châu vui mừng kêu lên: “Đại ca, Thánh thượng còn hỏi tới anh đó!” Ngũ Thứ Hữu vội xem, thấy phía sau có mấy hàng chữ nhỏ:

Ngũ tiên sinh đã đi về đông chưa? Rất nhớ. Nếu chưa đi, có thể chuyển lời Trẫm hỏi thăm. Trời đã lạnh, mong tiên sinh trên đường nên bảo trọng nhiều hơn. Ngươi nên sai phái hai người lanh lợi khỏe mạnh đưa tiên sinh về tận nơi. Trẫm đã hạ chiếu Tuần vũ An Huy tiếp đón. Chú ý.

Minh Châu vô cùng cảm động nói: “Thánh thượng vẫn nhớ không quên huynh trưởng!” Ngũ Thứ Hữu không đáp, nước mắt ròng ròng lạy tạ chiếu thư, khi đứng lên, vạt áo ướt đẫm.

Hôm sau, hai anh em chia tay. Trên đê lớn sông Hoàng Hà, gió lạnh hun hút, bụi đất mù trời, bím tóc hai người bay sau gáy, sóng cát bồng bềnh lắc lư, những đám cỏ tranh và những chùm liễu mảnh múa may lay động theo chiều gió, xào xào như khóc, như nói hộ người xa nhau những tình cảm biệt ly. Hai người nắm tay nhìn nhau, lặng yên rất lâu. Bỗng Ngũ Thứ Hữu cao giọng hát:

Người sắp đi xa, ta thì ở lại, nhìn phía tây đường Trường An mù khói.

Hoàng Hà xưa bồi hồi lối cát, dạt về đâu chiều nay, bèo trôi?

Gió ù thổi mênh mông bát ngát, tuốt gươm ra ta múa tận trời.

Than rằng: Người không thấy

Yên Triệu xưa tráng sĩ bi ca, mang kiếm về tây không trở lại!

Ráng lo sáng đức cũng có ngày, tự bao giờ sông trăng cứ chảy.

Ngâm xong ứa lệ cười nói: “Chú em, chúng ta chia tay tại đây!”

Minh Châu khóc nức nở. Ngũ Thứ Hữu cũng sợ phải nhìn lại cảnh này, quay người lên ngựa. Một hàng ba người bốn kỵ sĩ ra đi, không quay đầu nhìn lại. Minh Châu trèo lên để nhìn theo, cho mãi đến lúc không thấy bóng dáng của họ mới ra lệnh lên đường đi về hướng Tây.

Hết tập 1