Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 44

44

Giữa tiệc chết nhận học trò, võ công hiển hách

Nơi trường đình đưa tiễn bạn tình cảm dùng dằng

Ra khỏi Ngọ Môn, Ngụy Đông Đình ra roi cho ngựa đến quán Duyệt Bằng, Minh Châu đợi trước Thiên An Môn thấy anh phóng ngựa nhanh tới bèn giậm chân oán trách: “Em cứ tưởng anh đi một lúc rồi về, ai ngờ kéo tận đến bây giờ! Chúng ta mau trở về gặp Tư Hách thôi, chà, không biết bắt đầu từ đâu!” Ngụy Đông Đình cũng không nói nhiều, “Chú sao còn ở đây, đi nhanh lên!” Hai người liền sát vai cùng phóng ngựa đi.

Người gác cửa quán Duyệt Bằng, lại thêm người của bộ Hình, canh gác nghiêm ngặt là đương nhiên. Bá tánh chung quanh không biết cái quán đặc biệt này xảy ra chuyện gì, đều nghển cổ thò đầu lên nhìn vào trong, nhưng không biết là chuyện gì nên không dám vây lại xem, Ngụy Đông Đình và Minh Châu đến trước cửa, gò cương lại lăn xuống đất. Người gác cửa đã được Lang Thẩm dặn trước, người nào cũng xuôi tay đứng đấy.

Hà Quế Trụ đang đứng trước hiên sai bảo người xếp đặt tiệc rượu. Thấy họ đến vội đi lên trước, làm lễ chào theo phép cấp dưới gặp cấp trên, rồi nói: “Đều ở cả trong ấy đợi hai vị!”

“Chú cũng vào đi!” Ngụy Đông Đình nói, “Yến tiệc làm khá lên một chút!” Nói xong dắt tay Minh Châu đi vào nhà trong. Minh Châu bề ngoài trầm tĩnh, nhưng Ngụy Đông Đình cầm tay anh thấy ướt đẫm mồ hôi và lạnh loát.

Vẫn ở chỗ năm trước Ngũ Thứ Hữu luận đàm thế sự, chỉ có khác chủ tọa đã đổi cho Tư Hách, y như say như ngây. Ngồi hai bên là Mục Tử Húc và “Lừa bướng”, mặt tối sầm, yên lặng. Vẫn là Ngũ Thứ Hữu thoải mái hơn, thấy họ bước vào, đứng dậy nhường nói: “Chú Tư Hách đã đợi các chú lâu rồi, chúng ta ngồi xuống nói chuyện thôi.” Thấy Hà Quế Trụ bước vào, chỉ huy nhà bếp xếp lên từng món, từng món, toàn là sơn hào hải vị, đĩa lớn, bát nhỏ, xếp đầy một bàn, có đến hơn bốn mươi món. Mọi người sửng sốt, ai cũng không muốn đụng đến.

“Anh Tư!” Minh Châu lên tiếng trước tiên, “Sự tình các anh em đều biết! Đại trượng phu dám làm dám chịu, coi sống chết như trò trẻ con, tôi xem anh Tư cũng là một hảo hán. Nào, xin kính anh một ly!”

Tư Hách cầm ly rượu nhìn mọi người xung quanh, bỗng cười nói: “Vẫn là chú Minh Châu vui vẻ! Phải tôn người chết trước, ly này tôi nhận trước!” Nói xong ngửa cổ uống, rồi nói “mời!”

Mọi người cùng uống. Hà Quế Trụ nước mắt nhòe mi, rượu uống không vào, nghẹn ngào nói: “Đang yên lành bỗng dưng sinh chuyện, không ai hiểu ra sao cả!” Nói xong nước mắt lã chã.

“Quế Trụ!” Ngụy Đông Đình biết anh đã khóc thì mọi người đều không kìm nổi, sẽ phá mất cuộc này, vội chặn đứng: “Hôm nay là ngày tốt. Tư Hách lên trời, chứ không nên như vậy!” Ngũ Thứ Hữu nghe câu nói đó, trong lòng đau buồn, ráng kìm nén nói: “Chú Hổ Thần nói đúng. Hách hiền đệ hôm nay có lời cáo biệt lâu dài, chúng ta phải hết sức làm cho chú say mềm. Chú Tư phạm phải phép vua, chúng ta cứu không nổi, lẽ nào tấm lòng chúng ta cũng không dốc hết được sao? Nào! Chú em, ta cũng kính chú một ly!”

Tư Hách run lẩy bẩy nhận ly rượu uống, cười nói: “Tôi thực có chuyện với Ban Bố Nhĩ Thiện, có lỗi với Hoàng thượng, chết cũng không oan! Người sắp chết không nói xằng bậy, tôi dám thề với trời đất, quyết không có ý làm hại chư vị anh em!”

“Việc đó đã biết rồi.” Ngũ Tứ Hữu nói, “Chỉ là chú không nghĩ chu đáo tình thế chung thôi, e cũng muốn mở ra cho anh em một con đường. Đã như vậy, thì chúng ta cũng không nên chỉ trích. Hôm nay từ biệt rồi không còn được gặp lại nhau, chú nên uống thêm mấy ly.” Nói xong lại bưng tới một ly, Tư Hách uống cạn không từ chối.

Minh Châu ung dung đứng lên nói: “Tôi còn nửa hũ Ngọc Hồ Xuân, năm trước cùng Ngũ tiên sinh vây quanh lò sưởi nói chuyện, tôi để lại một ít, vốn định…” Anh không nói tiếp được. Anh định nói để hũ rượu cùng uống với cô Thúy khi mình thi đỗ tên treo bảng vàng, lúc này đành phải sửa lại nói: “Vốn định sau khi đại sự qua rồi, anh em chúng ta chia nhau cùng uống, hôm nay phải đãi anh Tư thôi!” Nói xong quay người đi ra phía sau.

Tư Hách rượu vào nhiều đã có hơi say, quay mặt hỏi Mục Tử Húc: “Anh Hai, anh và anh Ba sao không nói gì? Anh giận thằng em này chăng?”

Mục Tử Húc mặt trắng như tờ giấy, gượng cười nói: “Chú em, Ngụy đại ca bận việc, không coi sóc hết, còn ta cũng không lo chu đáo, làm chú em rơi vào kết cục này!” Ngụy Đông Đình nghe nói, cảm thấy choáng váng từng hồi từng hồi, nhưng không biết nói gì. “Lừa bướng” đã hơi say, đập bàn đánh “rầm”, đứng lên nói: “Em Tư có tội nhưng cũng có công, thế nào mà không không tha thứ được! Lẽ nào tội to hơn Ngao Bái? Tôi đi tìm Hoàng thượng để hỏi đây!” Quay người định đi, Ngụy Đông Đình một tay kéo lại. Bên ngoài, tên quân giám sát nghe tiếng động không biết xảy ra chuyện gì, thò đầu vào nhìn thấy không có chuyện gì, bèn lui ra.

Ngũ Thứ Hữu thấy vậy, khuyên can nói: “Ý trời khó sửa, oai trời khó lường, từ xưa.” – Vốn ông định nói, “Bầu bạn với vua như bầu bạn với hổ”, nhưng kìm lại được, bưng một ly rượu đưa cho Tư Hách: “Chú em, uống ly này, huynh trưởng làm điếu văn cho chú!” Thấy Tư Hách uống xong, anh đứng lên, giọng run run đọc to: “Xưa nay không ai hoàn hảo, buồn thay tráng sĩ thọ hình, Chín châu có người như vậy.”

“Khoan đã.” Ngụy Đông Đình lúc này ruột gan như lửa đốt, ngang nhiên nói, “Ngũ tiên sinh đừng ngâm vế dưới, anh em chúng tôi mấy người ngày mai vào triều, bỏ quan không làm để đổi mạng sống cho chú Tư, may ra có thể làm thay đổi lòng trời,” Vừa hay lúc đó Minh Châu bưng hũ rượu bước vào nghe nói vậy trong lòng không khỏi ngạc nhiên. Hôm nay trước mặt Đức Vạn tuế đã quyết định xong việc này rồi, làm sao bây giờ lại đổi chiều? Anh vừa rót rượu vừa suy nghĩ, miệng lại nói: “Đúng, cầu xin Hoàng thượng ân chuẩn cho lập công chuộc tội, có lẽ được đấy.”

Nói tới đây, bỗng nghe quân sĩ ngoài cửa quát to: “Đạo sĩ thối này ở đâu tới, đi xin bố thí thì cũng phải xem đây là đâu chứ, mau đi đi!” Ngụy Động Đình nghe tiếng ồn ào, bước ra nghe ngóng, thấy ngay Hồ Cung Sơn mặc quần áo đạo sĩ mặt mũi bẩn thỉu, tóc tai bù xù, nói điên điên khùng khùng: “Hoàng đế vẫn có người nghèo, trong đó nhiều rượu thịt ngon, lẽ nào bần đạo tôi không được ăn?” Nói xong bèn xông vào trong. Quân sĩ gác cửa đâu có ngăn được ông! Người uống rượu trong nhà bỗng ngơ ngác, Ngụy Đông Đình ra hiệu cho lính gác lui ra, đứng giữa nhà nói to: “Hạc giá từ nơi nào tới?”

“Tới tìm đồ đệ!” Hồ Cung Sơn cười nói, “Cái gì hạc giá không hạc giá, rượu thịt đầy bàn đã lôi cuốn bần đạo tới đây.”

“Sư phụ!” Tư Hách bỗng nhiên nhớ lại việc gặp gỡ Hồ Cung Sơn ở Bạch Vân quan, lỡ miệng kêu lên, “Sư phụ đến rồi, ha ha! Sư phụ đến rồi!” Mọi người trong phòng đều kinh ngạc, không hiểu là chuyện gì đã xảy ra. Tư Hách đã quỳ phục xuống đất đón tiếp.

Hồ Cung Sơn nghênh ngang đi vào, chỉ vái chào Hà Quế Trụ, nói: “Hà thí chủ, bần đạo lại quấy rầy ông rồi, có chịu không?” Hà Quế Trụ đầu đầy mồ hôi, vội đáp: “Dĩ nhiên, dĩ nhiên...” Ngụy Đông Đình rất nhạy cảm nói, “Ngày trước Hồ Cung phụng, hôm nay cẩu đạo sĩ (đạo sĩ chó), đây còn một đùi lợn, có ăn được không?” Hồ Cung Sơn đặt mông ngồi xuống, cười nói: “Xem ra anh cũng còn biết tình người cũ, có một đùi lợn chín mà gặm đương nhiên là khoái rồi!” Hà Quế Trụ vội vàng xuống bếp, bưng ra một đĩa to đựng một đùi lợn vừa nướng chín.

“Tốt! tốt!” Hồ Cung Sơn chỉ liếc nhìn Tư Hách đang quỳ, còn những người khác xem bằng không, một tay cầm cái đùi lợn gặm xé ăn ngon lành, mồm nghều ngoào: “Ngụy thí chủ, cái tên nhóc này bao giờ quy thiên?” Lúc Hồ Cung Sơn nói, bên ngoài Lang Thẩm đã được báo, cầm kiếm đi vào, nghe câu hỏi liền tiếp: “Hoàng thượng lệnh cho anh ta tự vẫn vào giờ Tý đêm nay.”

“Cần gì phải đến giờ Tý?” Cái đùi lợn trong tay Hồ Cung Sơn gần ăn hết rồi, liền hỏi: “Đồ đệ, ta từng đã đồng ý cho chú, nghĩ thay cho ngươi chính là việc này đây, ngươi có chịu không?”

Tư Hách thông minh không kém Minh Châu, đã sớm biết dụng ý của ông, vội dập đầu vái lia lịa nói: “Đồ đệ bằng lòng!”

“Ngươi đứng lên, uống ly rượu này, rồi sư phụ đưa con lên đường!” Hồ Cung Sơn bưng ly rượu lên, nói với mọi người: “Xin mời, xin mời. Mọi người đều là bạn của Hách Xuân Thành, đều không phải người ngoài, nào!”

Mọi người không biết ông giở ra phép thuật gì đây, ngại ngùng nhìn nhau bưng chén rượu lên. Riêng Minh Châu ngẩn người nhìn chén rượu Ngọc Hồ Xuân anh vừa rót ra.

“Thí chủ Minh Châu,” Hồ Cung Sơn cười nói, “xin mời uống thôi. Đại thần Tống Hoằng của Hán Quang Vũ đã từng nói: “Bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất khả hạ đường” (bạn lúc nghèo hèn không thể quên, vợ khi khổ sở không thể coi thường). Anh không thể một câu mà không thực hiện lời hứa!”

“Anh Hồ rất ưa nói chuyện đùa,” mặt Minh Châu lúc đỏ lúc tái, “rượu sao không uống?” rồi bưng bát lên, nhưng chưa chịu uống.

“Rượu độc!” “Lừa bướng” tuy ngốc nhưng cũng có lúc thông minh, thấy Minh Châu bối rối như vậy bỗng tỉnh ngộ, đập bàn một cái, trườn người qua, nắm ngực Minh Châu mắng rằng: “Đồ súc sinh, ông ta có thù gì với ngươi mà ra tay ác độc?” Minh Châu bị kéo thở không ra hơi, chỉ cười cay đắng lắc đầu: “Anh Ba sai... trách sai em… rồi!”

“Đúng vậy!” Hồ Cung Sơn kéo hũ rượu lại, cười nói, “Bỏ Minh lão gia ra, bần đạo người ngoài có lòng từ bi, chút đỉnh rượu độc này bần đạo xin nhận!” Ngước miệng dốc một cái, đã uống sạch cả hũ rượu. Rồi đưa bát rượu của mình cho Minh Châu: “Chú uống bát này, tiễn đưa anh Tư chú đi!” Thấy Hồ Cung Sơn như vậy, Minh Châu đâu dám nói gì, đành bưng uống. “Tốt, tốt!” Hồ Cung Sơn vừa nói vừa ấn nhẹ vào lưng Tư Hách hai cái, Tư Hách không kêu được một tiếng, ngã uỵch xuống đất bất tỉnh nhân sự. Lang Thẩm hoảng kinh, gọi quan khám nghiệm tử thi tới, bước tới sờ mũi, bắt mạch, lật mắt lên nhìn, đồng tử đã đục, liền đứng dậy thưa rằng: “Bẩm đại nhân, người này đã chết!”

Mọi người tá hỏa ra, “Lừa bướng” hai mắt đỏ ngầu chồm tới nắm áo Hồ Cung Sơn: “Đồ yêu quái, mi dùng phép thuật gì hại chết anh ta? Còn nói Minh Châu lòng dạ xấu xa, ta thấy mi là đồ lưu manh!” Câu nói làm đau lòng Minh Châu, anh đấm ngực dậm chân khóc ròng, chồm lên người Tư Hách vừa cào vừa cấu: “Anh Tư ơi, anh đừng... đừng oán trách em! Anh khổ, thằng em này không chịu nổi!” Ngũ Thứ Hữu vốn có nghi ngờ anh, thấy anh đau buồn như vậy, còn rượu độc Hồ Cung Sơn vừa uống hết hũ, lúc này trong lòng cũng thư thả, bất giác ngã xuống ghế, nước mắt tràn ra. Ngụy Đông Đình biết Hồ Cung Sơn có một võ công ghê gớm, có thể làm người chết giả, nhưng lúc đó anh cũng đành giả bộ không biết gì, bèn rút khăn tay lau nước mắt.

“Chết rồi sao?” Lang Thẩm hỏi lại quan khám nghiệm.

“Bẩm đại nhân, sáu mạch đều không, hơi thở cũng dứt!”

“Ta hỏi là đã chết chưa?”

“Dạ – đúng, chết rồi ạ!”

“Vậy tôi đi báo đã phụng chỉ!” Lang Thẩm quay mặt vái chào Hồ Cung Sơn. “Đã nghe lão đạo võ nghệ cao cường, đưa đồ đệ của ngài đi một cách không đau không khổ, cũng là làm việc thiện. Chúng tôi và chú Tư thường ngày rất tốt với nhau, ở đây tôi cũng xin cảm ơn.” Nói xong dẫn người của bộ Hình đi báo đã phụng chỉ.

“Minh đại nhân!” Hồ Cung Sơn nói, “Tư Hách nguyên là đệ tử của Sử Long Bưu, bây giờ là đồ đệ của tôi, xin chú nể tình cho tôi mang xác về núi Nga Mi, thiêu xác theo quy cách đại gia chúng tôi.”

“Cái này... Ngụy đại ca, anh thấy thế nào?”

“Không cần hỏi anh Ngụy, chỉ cần chú đồng ý là được, người khác không ai ngăn cản được tôi.” Hồ Cung Sơn nói, vừa vung tay áo ra, từng giọt rượu rơi xuống đất, Minh Châu vội nói: “Đương nhiên là phải theo cách thức của các anh, nhưng đây mới chỉ là tôi nói, còn phải xem ý kiến các anh em thế nào.”

“Ai dám ngăn tôi?” Hồ Cung Sơn bỗng nhiên trừng mắt dữ tợn, quát to, “Đồ đệ của tôi chết trong tay các người, lẽ nào còn không cho thu xác!” Nói xong ôm xác Tư Hách nhanh bước đi ra. “Lừa bướng” muốn xông ra ngăn, Ngụy Đông Đình đứng bên kéo nhẹ lại, anh nhìn ánh mắt Ngụy Đông Đình nên cũng không quấy rầy nữa. Hồ Cung Sơn đi ra khỏi nhà, đá trên bậc thềm ông đi xuống từng viên, từng viên đứt rời ra. Thấy ông đạo sĩ xấu xí mà bản lĩnh cao cường, ai cũng kinh ngạc.

Không nói số phận bản thân mấy người ra sao, kỷ cương triều đình ngày càng chặt chẽ. Nha môn mười ba bị xóa sổ, Khang Hy lại hạ lệnh xây dựng lại dinh Thiện Phốc, Mục Tử Húc, “Lừa bướng” được tấn thăng thị vệ bậc ba, quản lý bốn ngàn người ngựa dinh Thiện Phốc chuyên bảo vệ Tử Cấm thành, nhưng vẫn thuộc quyền tổng chỉ huy của Ngụy Đông Đình. Át Tất Long bị giáng xuống làm Hiệp ban đại học sĩ, hợp cùng Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý là hành tẩu phòng Thượng thư điện Mậu Cần. Điện Dưỡng Tâm dừng việc tiếp kiến các thần bên ngoài, từ đó Khang Hy đổi lại hàng ngày nghe chính sự ở cửa Càn Thanh. Trên dưới thông nhau, không còn chỗ ngăn cách. Từ tháng năm, sau khi hạ chiếu nghiêm cấm khoanh đất, chiếm nhà, tiếp đến bãi miễn thuế cho 45 châu bị thiên tai như Trực Lệ, Giang Nam, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây, Hồ Quảng... Đến tháng tám, Khang Hy bỗng hạ chiếu cử Minh Châu làm Tả đô ngự sử, Khâm sai Tây An, bắt giữ Tổng đốc Sơn Thiểm Mộ Lạc và Tuần vũ Bạch Thanh Ngạch đưa về kinh trị tội, nhân tiện sưu tầm dân ca. Vừa lúc Ngũ Thứ Hữu muốn về nam, Minh Châu bèn hẹn ông cùng lên đường. Ngụy Đông Đình mời Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý, hai anh em họ Mục, đem rượu thịt tiễn họ lên đường.

Thời tiết lúc đó đã là tháng chín thu vàng. Đất ngả màu vàng, trời mây xanh biếc, eo sông Vĩnh Định một vùng gấm vóc róc rách chảy về đông, làm nổi bật lên núi Yến Sơn mờ mờ phía xa trên nền mây bạc. Gió thu thổi qua, lá vàng trên cây dương liễu rủ rơi xuống từng chiếc từng chiếc, đáp trên nền cỏ khô vàng cuốn theo run rẩy. Càng hiện rõ cảnh đất trời ảm đạm, tình cảm biệt ly lâu dài.

Yến ẩm một lúc, Ngũ Thứ Hữu đứng dậy nói: “Kẻ bất tài vào kinh từ năm Thuận Trị mười, mong cầu công danh đã tám năm hơn. Tất không tự cho mình phong lưu, cao ngạo hơn người, nhưng cũng đã nếm đủ mùi đời thăng trầm lên xuống, lại gặp Thánh chủ anh minh, cuộc đời này không đến nỗi vô duyên! Tôi vốn là người lang bạt, nên cứ phải phiêu bạt giang hồ, có gì mà tiếc?” Vừa nói vừa nhìn Hùng Tứ Lý, “Đức độ văn chương của ngài, mọi người kính phục, tất có thể bỏ hư vụ thực, phò tá Thánh Quân trị nước an dân, xây cơ nghiệp muôn đời cho Trung Hoa ta. Đó là điều người có học như tôi mong ký thác ở ngài đó!”

Hùng Tứ Lý là danh gia lý học, trước nay đau đầu vì những thứ “tạp nham” này của Ngũ Thứ Hữu, nhưng hôm nay tiễn biệt, thấy thần sắc Ngũ Thứ Hữu trang trọng như vậy, tình ý chân thành tha thiết, tuy lời nói có chỗ chưa hợp quy tắc, nhưng cũng là thẳng thắn, một số vướng mắc thường ngày với nhau bỗng xóa sạch trơn. Thấy Ngũ Thứ Hữu nói thẳng với mình, vội cúi người đáp rằng: “Ngũ tiên sinh hùng tài đại lược, được Thánh chủ khen ngợi nhiều, hôm nay về quê, chính là để triển khai cơ đồ to lớn, ngài không nên quên mình, trên đường phải ráng giữ gìn sức khỏe!”

“Tôi làm gì có cơ đồ to lớn?” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Ngày sau gặp lại chư vị mà không bị ghét bỏ là thỏa nguyện lắm rồi. Túc hạ hoặc có đến Giang Nam, sẽ cùng ngài chuốc rượu bàn đạo lý lại phải cần uốn nắn cho!” Đây ý nói lúc Khang Hy học ở phủ Sách, có lúc đưa Hùng Tứ Lý áo vải đi theo, khi gặp nhau thường tranh cãi, chuyện đó còn chưa kết thúc. Hùng Tứ Lý bỗng mỉm cười nói: “Được, một lời hứa chắc!”

Sách Ngạch Đồ đến bờ sông bẻ một cành liễu, quay lại nói: “Tuy là nói vậy, Minh Châu không bao lâu sẽ trở về, còn tiên sinh, không biết ngày nào gặp lại!” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Sách đại nhân vẫn chưa thoát khỏi nhi nữ thường tình!” Nói xong nhận cành liễu, ngẫm nghĩ nói: “Tôi nghĩ dương liễu tuy tốt, nhưng vẫn phiêu bạt theo chiều gió, không bằng trúc. Ngài tặng tôi liễu, tôi trả lại ngài một bài thơ trúc. Bài này do Quan Thánh đế viết:

Cúi tạ ý Đông quân,

Xanh đỏ tên riêng biệt.

Đừng chê lá côi nhạt.

Vĩnh viễn không phai tàn.

Ngụy Đông Đình nghe càng cảm thấy càng thê thảm trăm đường, vội cười nói: “Chúng ta tạm xa nhau ở đây, những lời này, bài thơ này quá thê lương. Tiên sinh khi có dịp, nên thường nhắn tin về. Nếu có cần gì gấp, cũng có thể chuyển qua đường trạm tin, cá nhạn qua lại vẫn còn tiện lợi.” Nói xong bưng rượu dâng cho hai người. Mục Tử Húc, “Lừa bướng” cũng bước lên chắp tay nói lời trân trọng. Lúc đó mọi người vòng tay gạt lệ giã từ. Minh Châu ra lệnh: “Dắt ngựa lại đây!”

Trên mình ngựa Minh Châu ngoái đầu nhìn lại cửa Đông Trực càng đi càng xa, từ ngoại ô hoang vắng nhìn lại lầu cao nguy nga, cũng đủ gợi lên niềm tâm sự, bản thân mình hồi đó vào kinh cũng qua con đường này, một mình đơn độc, tứ cố vô thân, áo cơm không có quả là thê thảm! Hôm nay lại cũng từ cửa này đi ra. Đã là đường đường một Khâm sai thay trời đi công cán. Mặc bộ quần áo thêu chín rồng năm vuốt kết lông bờm ngựa đen, sau cái mũ san hô nạm đá quý xanh, có một chiếc lông công xanh biếc, thật là dáng vẻ một quan đại thần khí thế oai phong rất mực! “Đại trượng phu sống trên đời cần phải như vậy. Ta còn phải vững vàng làm cho bá tánh mấy việc tốt, để tiếng muôn đời cũng chẳng có gì khó!” Minh Châu Suy nghĩ, quay đầu lại, vung roi định nói: “Chưa chắc gió xuân mới đắc chí, đi đường ngay trong tiết trời thu cũng gây ra hào hứng.” Nhưng thấy Ngũ Thứ Hữu nét mặt u sầu, nên lặng im không nói.

Ngũ Thứ Hữu hình như cũng nhận thấy, ông mỉm cười nói: “Lúa được mấy trận mưa, Kinh kỳ bỏ khoanh đất, bá tánh ra sức trồng trọt, mưa mấy ngày vừa rồi tốt lắm.”

Minh Châu chau mày nói: “Đại ca nói đúng, nhưng hình như bá tánh còn nghi ngại. Chúng ta đã đi được ba mươi mấy dặm rồi nhỉ? Trên dọc đường người trồng vụ thu không nhiều.”

“Có ruộng làm được nhưng không có người làm, không chỉ riêng Trực Lệ như vậy, ngay cả quê hương chúng ta cũng vậy thôi.” Ngũ Thứ Hữu ngưng lại một lát rồi thở dài nói: “Bao nhiêu năm giặc giã, lại khoanh đất làm rối thêm, đến nay khắp nơi người dân bị nạn rên xiết thảm thương, hoang vắng ngút tầm, còn phải đợi dân tình sống lại!”

Một bên là “gió thu đắc chí”, một bên là “hoang vắng ngút tầm”, cảnh vật như nhau tâm tình hai người lại khác, cảm thụ không giống nhau. Minh Châu là người cực kỳ thông minh, lập tức ý thức được điều này, cảm thấy mình phải thích nghi với tâm tình Ngũ Thứ Hữu, anh vội nói: “Đại ca lúc nào cũng tâm niệm dân sinh, tiểu đệ vô cùng khâm phục. Tiểu đệ đi lần này, phải học đại ca cách làm người, làm một số việc có lợi cho dân.”

“Ta đâu được coi là tâm niệm dân sinh?” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Đó là việc của Long Nhi. Nhưng tâm nguyện này của chú có lợi cho bá tánh, ngu huynh sẽ theo dõi chú! Theo ta nghĩ, nếu không đánh giặc, năm năm khôi phục nguyên khí, còn nếu đánh nhau thì khó nói đấy.”

“Đánh thì không đánh được nữa rồi.” Minh Châu nói tiếp. “Đánh nữa thì cả bá tánh, triều đình đều không chịu đựng nổi.”

“Việc này không phải do ta hay chú, cũng không do Hoàng thượng, mà phải xem Ngô Tam Quế nghĩ thế nào.” Ngũ Thứ Hữu nói, “Nhưng bá tánh không muốn đánh nhau nữa, đó là sự thật. Trời nghe từ chỗ dân nghe, trời thấy từ chỗ dân thấy. Ngô Tam Quế dám phạm vào điều lầm lỗi lớn này, chỉ có con đường chết. Con người này điên cuồng nhưng bất tài. Năm ngoái đi chơi Bạch Vân quan thấy ông ta đề chữ, ta đã nói là ông ta “không đo đức, không lượng sức”, kết cục không thể khá hơn Ngao Bái.” Minh Châu nghe xong gật đầu im lặng.