Những Âm Mưu Từ Đảo Jekyll - Chương 08

Chương 8 VÀNG CỦA KẺ KHỜ Lịch sử tiền giấy không được bảo đảm bằng kim loại quý do chính phủ áp đặt cho dân chúng qua các sắc lệnh; sự nổi lên của hệ thống dự trữ cục bộ của chúng ta ngày nay vốn dựa vào việc phát hành số lượng lớn biên lai bảo đảm bằng vàng nhiều hơn số vàng mà ngân hàng thực có cho việc đảm bảo đó. Trong phần trước, chúng ta đã chia khái niệm tiền ra làm bốn nhóm như sau: tiền hàng, tiền hóa đơn, tiền pháp định và tiền dự trữ. Và ở chương trước, chúng ta đã nghiên cứu tiền hàng và tiền hóa đơn ở một mức độ chi tiết nhất định. Khi nghiên cứu, chúng ta cũng thiết lập một số nguyên lý về tiền tệ có thể ứng dụng với bất kỳ dạng tiền nào. Bây giờ, chúng ta sẽ đến với hai nhóm còn lại, cả hai đều có hình thức thể hiện là giấy và đều là căn nguyên cho hầu hết tất cả tai họa kinh tế của loài người hiện đại. TIỀN PHÁP ĐỊNH Từ điển Di sản Mỹ định nghĩa tiền pháp định là: “vị thế pháp lý được gán cho một loại tiền giấy, không được bảo đảm bằng vàng hay bạc.” Theo định nghĩa trên, tiền pháp định có hai đặc điểm: thứ nhất, nó không đại diện cho bất kỳ thứ gì thuộc giá trị nội tại và thứ hai, nó là một vị thế pháp lý được gán cho một loại tiền giấy. Nói một cách đơn giản, vị thế pháp lý có nghĩa là một đạo luật yêu cầu mọi người phải chấp nhận một loại tiền tệ nào đó trong thương mại. Hai đặc điểm này luôn tồn tại cùng nhau bởi thực ra bản thân tờ tiền không có giá trị và dân chúng sẽ sớm quay lưng với nó để chọn một phương tiện thanh toán đáng tin cậy hơn như tiền đúc từ vàng hay bạc. Do đó, khi phát hành tiền pháp định, chính phủ luôn công nhận nó là một vị thế pháp lý mà kèm theo đó là án phạt nặng hay thậm chí là án tù cho những ai chống lại. Cách duy nhất để các chính phủ dùng loại tiền vô giá trị đó nhằm đổi lấy hàng hóa và dịch vụ hữu hình là không cho công dân của mình lựa chọn nào khác. Ứng dụng đáng lưu ý đầu tiên của biện pháp này được Marco Polo ghi nhận trong những chuyến hành trình đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ mười ba. Nhà thám hiểm nổi tiếng này đã miêu tả như sau: Xưởng đúc tiền của Hoàng Đế khi đó nằm trong Kinh thành Cambaluc và cái cách mà nó hoạt động có thể khiến bạn thốt lên rằng vị hoàng đế này hẳn phải có Bí thuật giả kim ở khâu đúc hai mặt và bạn sẽ đúng! … Họ sử dụng một loại sợi vỏ cây nào đó có màu trắng, nằm giữa lớp gỗ và phần vỏ dày bên ngoài, và từ đây, làm thành một thứ trông giống như tờ giấy, nhưng màu đen. Khi những tấm giấy này đã sẵn sàng sử dụng, họ cắt chúng ra thành từng mảnh nhỏ với kích cỡ khác nhau. Mảnh nhỏ nhất có giá trị tương đương nửa tornesel (đồng tiền bạc của châu Âu thời kỳ Trung Cổ)… Cũng có loại tương đương một Bezant vàng, ba Bezant vàng và cả mười Bezant vàng. Tất cả những mẩu giấy này được phát hành trong sự long trọng và quyền uy như thể chúng là vàng ròng hay bạc nguyên chất vậy và trên mỗi mảnh giấy, các quan lại có thẩm quyền phải ký tên và đóng dấu lên đó. Còn khi tất cả được chuẩn bị sẵn sàng, vị Thượng thư do Hoàng Đế ngự phong sẽ thoa mực đỏ lên con triện thể hiện đặc quyền của mình và đóng dấu đỏ lên tờ tiền, bằng chứng xác thực tiền này được lưu hành hợp pháp. Bất kỳ ai làm tiền giả đều chịu án tử hình. Và mỗi năm, Hoàng Đế đều cho phát hành một khối lượng tiền mới khổng lồ, điều này không khiến ngài mất gì mà còn phải ngang bằng giá trị của tất cả báu vật trên thế giới. Với cách làm được nêu trên, Hoàng Đế có thể thanh toán tất cả chi phí và làm cho những mẩu giấy này trở thành tiền tệ trên khắp lãnh thổ của mình… Và đối với ngài, không có một ai dù là quan trọng với mình lại dám kháng lệnh trừ khi muốn bị xử tử. Và quả thật, mọi người sẵn sàng chấp nhận nó.[1] Có người sẽ cảm thấy kinh ngạc trước uy quyền của Hoàng Đế và sự khúm núm của những kẻ đang bị ảnh hưởng trực tiếp vì đã không dám thách thức cơn thịnh nộ của ngài; nhưng sự thiển cận của chúng ta sẽ nhanh chóng tan biến khi nghĩ đến điều tương tự đang xảy ra với Chứng Nợ Dự Trữ Liên Bang. Nó cũng được tô điểm bằng chữ ký và con dấu; ai làm giả cũng sẽ bị trừng phạt nặng, chính phủ cũng dùng chúng để trang trải chi phí; dân chúng bị ép phải chấp nhận sử dụng; chúng - và dạng tiền séc “vô hình”, thứ có thể được chuyển đổi thành như vậy - sẽ được in ồ ạt và cũng có giá trị tương đương tất cả tài sản trên thế giới này cộng lại. Và người ta cũng không mất gì khi in chúng. Thật sự thì hệ thống tiền tệ ngày nay của chúng ta gần như là một bản sao chính xác từ hệ thống của triều đại các chiến binh cách đây bảy thế kỷ. KINH NGHIỆM THUỘC ĐỊA Thật đáng tiếc, tình hình hiện tại không phải là duy nhất trong lịch sử của chúng ta. Trên thực tế, sau Trung Quốc, địa chỉ tiếp theo trên thế giới chấp thuận việc sử dụng tiền pháp định là Mỹ, cụ thể là Cơ Quan Lập Pháp Thuộc Địa Massachusetts (Massachusetts Bay Colony). Sự kiện này được miêu tả “không chỉ là khởi nguồn của tiền pháp định ở Mỹ mà còn ở Vương Quốc Anh và hầu hết trong thế giới Thiên chúa Giáo.”[2] Năm 1690, Massachusetts phát động một cuộc đột kích quân sự bất ngờ nhằm vào thuộc địa của Pháp ở Quebec. Điều này đã diễn ra trước đó và lần nào cũng vậy, của cải cướp được luôn nhiều hơn tiền của bỏ ra cho cuộc viễn chinh. Tuy nhiên, chiến dịch cướp bóc lần này thất bại thảm hại và đoàn quân trở về tay trắng. Khi những binh sĩ đòi quân lương, Massachusetts nhìn lại ngân quỹ và thấy trống rỗng. Những binh sĩ bất bình có cớ để trở nên ương ngạnh, vì vậy, giới sĩ quan cần tìm ra giải pháp để tăng ngân quỹ. Đánh thêm thuế chắc chắn không được nhiều người đồng thuận, nên họ quyết định in tiền giấy. Để thuyết phục binh sĩ và người dân chấp nhận dạng tiền mới này, chính phủ đưa ra hai lời hứa trịnh trọng: một, chính phủ sẽ đổi tiền vàng hay tiền bạc lấy tiền giấy đó ngay khi thu nhập từ thuế của chính phủ đạt mức hiệu quả yêu cầu và hai, hoàn toàn không phát hành thêm tiền giấy nữa. Hai lời hứa trịnh trọng này nhanh chóng bị phá vỡ chỉ sau vài tháng, chính phủ tuyên bố rằng đợt phát hành ban đầu không đủ để họ chi trả các khoản nợ và một đợt phát hành mới với quy mô lớn gấp sáu lần so với đợt trước được đưa vào lưu thông. Tiền vẫn không được hoàn lại trong suốt gần bốn mươi năm, rất lâu sau khi những người đã hứa hẹn trước dân chúng không còn tại nhiệm. MỘT KHUÔN MẪU CỔ ĐIỂN Hầu hết các thuộc địa khác đều nhanh chóng học tập phép màu của việc in tiền và lịch sử sau đó là ví dụ về thuyết nhân quả cổ điển: Chính phủ các nước mở rộng nguồn cung ứng tiền một cách giả tạo qua việc phát hành tiền pháp định. Điều này được thực hiện bởi những luật tiền tệ chính thức nhằm buộc người dân phải chấp nhận. Sau đó, tiền đúc bằng vàng và bạc dần biến mất, thay vào đó, chúng chảy vào các kho dự trữ cá nhân hoặc thương nhân nước ngoài - những người vẫn khăng khăng yêu cầu người mua phải trả tiền hàng bằng loại tiền thực. Nhiều thuộc địa không thừa nhận đồng tiền trước đó của mình bằng cách in ra những tờ bạc mới có giá trị cao hơn tiền cũ nhiều lần. Điều này gây ra bất mãn chế độ và bạo loạn trong dân. Còn cuối mỗi chu kỳ là tình trạng lạm phát lan tràn và hỗn loạn kinh tế. Năm 1703, Nam Carolina tuyên bố rằng tiền của mình là “một khoản thanh toán tốt và hợp pháp theo luật” và sau đó bổ sung rằng, bất kỳ ai từ chối loại tiền này sẽ “phải đóng một khoản phạt gấp hai lần giá trị in trên tờ tiền đã từ chối”. Đến năm 1716, hình phạt được nâng lên thành “gấp ba lần giá trị.”[3] XƯỞNG IN TIỀN VÀ NẠN LẠM PHÁT Benjamin Franklin là người khởi xướng hăng hái nhất cho việc phát hành tiền pháp định trong suốt những năm đương quyền và đã sử dụng ảnh hưởng to lớn của mình để áp đặt ý tưởng này lên công chúng, chúng ta có thể biết đôi chút về tình hình náo loạn lúc bấy giờ bằng việc để ý rằng, vào năm 1736, trong ấn phẩm Pennsylvania Gazette (Tạm dịch: Công báo Pennsylvania) của chính mình, Franklin đã xin lỗi người dân vì một đợt phát hành tiền bất thường và giải thích rằng máy in tiền “cùng với nhà in, đang hoạt động vì lợi ích của nhân dân, khiến nguồn tiền đã trở nên dồi dào hơn.”[4] Rõ ràng, việc in tiền là một công việc quan trọng và tốn thời gian. Năm 1737, Massachusetts phá giá tiền pháp định của mình tới 66%, theo đó, một đô-la mới đổi được ba đô-la cũ. Lời hứa mà chính phủ đưa ra khi đó là sau năm năm, toàn bộ lượng tiền mới này sẽ được hoàn trả đầy đủ bằng bạc hoặc vàng. Nhưng lời hứa vẫn không được thực hiện.[5] Đến cuối những năm 1750, Connecticut gánh chịu một tỷ lệ lạm phát tới 800%. Ở Carolina là 900%, Massachusetts là 1.000%, Rhode Island là 2.300%.[6] Theo quy luật tự nhiên, những đợt lạm phát này rồi cũng kết thúc nhưng hậu quả để lại là tình trạng giảm phát và đình trệ với quy mô lớn. Người ta đã nhận ra rằng, thậm chí ở thời kỳ thuộc địa, những đợt bùng nổ và phá sản kinh điển mà thường được các nhà kinh tế học hiện đại đổ lỗi cho một “thị trường tự do buông lỏng” thì thật sự là những biểu lộ trực tiếp của việc mở rộng và thu hẹp tiền pháp định vốn không còn được điều tiết bởi quy luật cung - cầu.[7] Trong thời gian này, tiền đúc kim loại hoàn toàn biết mất. Chúng nằm ở đâu đó trong các kho dự trữ cá nhân nhưng phần lớn đã được xuất ra nước ngoài, để lại những thuộc địa không còn nhiều lựa chọn ngoài tiền pháp định hoặc đổi trác. Tuy nhiên, các thương nhân nước ngoài lại không thích bất kỳ hình thức nào vừa nêu trên và tình hình thương mại quốc tế dường như chững lại. TRONG CÁI RỦI CÓ CÁI MAY Thử nghiệm bằng tiền pháp định là một thảm họa với các thuộc địa và còn là cái gai trong mắt Ngân hàng Anh. Ngân hàng đã sử dụng ảnh hưởng của mình đối với đồng Curon để cấm các thuộc địa tự đúc tiền hay thành lập ngân hàng địa phương. Điều này có nghĩa là nếu thuộc địa muốn sử dụng tiền giấy bởi tính tiện lợi của nó thì buộc phải sử dụng giấy bạc do Ngân hàng Anh phát hành. Không ai có thể đoán trước được chính quyền các thuộc địa lại sáng tạo đến nỗi tự phát hành lấy tiền giấy. Vì vậy, năm 1751, Vương Quốc Anh bắt đầu buộc các thuộc địa phải mua lại toàn bộ tiền tự phát hành và rút chúng ra khỏi lưu thông. Rốt cuộc họ đã thực hiện điều này nhưng ở mức giá thỏa thuận với dân chúng. Trước thời điểm đó, tiền pháp định bị mất giá nặng nề trên thị trường nên chính phủ chỉ phải bỏ ra rất ít tiền để mua lại toàn bộ lượng tiền đã phát hành lúc trước. Dù gây ra nhiều phẫn nộ ở các thuộc địa nhưng sắc lệnh của Quốc Hội Anh được coi là “trong rủi có may”. Giấy bạc của Ngân hàng Anh chưa bao giờ trở thành đồng tiền chính trong lưu thông. Có thể vì những trải nghiệm tồi tệ gần đây với tiền giấy mà các thuộc địa đã chọn cách mang số đồng tiền vàng và bạc ít ỏi còn lại ra khỏi kho dự trữ và trở về với hệ thống tiền - hàng hóa đích thực. Mới đầu, những người phán xét dự đoán rằng động thái này sẽ báo hiệu sự tàn phá nặng nề hơn cho nền kinh tế thuộc địa. “Không có đủ tiền” đã trở thành câu cửa miệng của nhiều người. Nhưng thực sự như chúng ta vừa thấy thì đã có đủ và bất kỳ số lượng thế nào cũng vẫn đủ. THUỐC LÁ TRỞ THÀNH TIỀN Thực tế, có thời gian mà những hàng hóa khác được chấp nhận như phương tiện trao đổi thứ hai. Những thứ chẳng hạn như móng vuốt của thú rừng, gỗ, gạo và rượu được thay thế cho tiền, nhưng thuốc lá vẫn là thông dụng nhất. Đây là hàng hóa có nhu cầu lớn trong thương mại thuộc địa và nước ngoài. Nó có giá trị nội tại, không thể bị giả mạo, có thể được chia theo hầu hết bất kỳ đơn vị số lượng nào, nguồn cung ứng không bị tăng lên ngoại trừ sự nỗ lực lao động. Nói một cách khác, nó được điều chỉnh bởi quy luật cung - cầu, điều mang lại sự ổn định lớn về giá trị. Theo nhiều cách, nó là một đồng tiền lý tưởng và được chính thức thông qua chẳng hạn như bang Virginia năm 1642 và vài năm sau là bang Maryland, nhưng vẫn không được sử dụng một cách chính thức ở tất cả thuộc địa khác. Vì vậy, sự gần gũi giữa tính đồng nhất của thuốc lá với tiền mà tiền pháp định trước đó ở New Jersey - không phải là bang phát triển thuốc lá - đã được thể hiện bằng bức hình về lá thuốc trên mặt đồng tiền. Nó cũng được khắc dòng chữ: “Tội giả mạo là Chết”. Thuốc lá được sử dụng trước đó ở Mỹ như phương tiện trao đổi thứ hai trong suốt hai trăm năm cho đến khi Hiến pháp mới tuyên bố rằng từ nay trở đi, tiền là đặc quyền duy nhất của chính phủ liên bang.[8] Tuy nhiên, tiền tệ chủ yếu vào lúc này vẫn là đồng tiền vàng và bạc hay còn được gọi là đồng tiền kim loại (specie). Và kết quả tức thì của việc chuyển thành đơn vị tiền tệ vững chắc là sự bình phục nhanh chóng từ tình trạng đình trệ nền kinh tế lúc trước phải gánh chịu bởi những cuộc bùng nổ và phá sản của tiền pháp định. Thương mại và sản lượng đã tăng đột biến và điều này quay lại thu hút dòng thu của tiền vàng và tiền bạc trên toàn thế giới, thay thế sự thiếu tiền từng được tạo ra bởi sự mất giá trị của tiền giấy. Quy luật cung - cầu hiển nhiên lại hoạt động. Lúc này, Massachusetts đã quay lại với tiền kim loại trong khi Rhode Island vẫn giữ nguyên tiền pháp định. Kết quả là Newport, từng trở thành trung tâm thương mại cho West Indies, để mất giao thương buôn bán của mình rơi vào Boston và trở thành một cảng trống rỗng.[9] Sau khi các thuộc địa quay lại tiền đúc, giá cả nhanh chóng lấy lại được trạng thái cân bằng tự nhiên của mình và giữ nguyên mức đó, thậm chí trong suốt Cuộc Chiến Bảy Năm hay tình trạng phá vỡ thương mại xảy ra ngay trước Cuộc Cách Mạng.[10] Không có ví dụ nào tốt hơn về thực tế rằng, các hệ thống kinh tế trong tình trạng suy kiệt có thể và tiến hành khôi phục nhanh chóng nếu chính phủ không can thiệp vào quá trình hàn gắn tự nhiên. CHIẾN TRANH ĐEM TIỀN pháp định trở lại Chiến tranh Độc lập đã đột ngột làm ngưng trệ tất cả điều này. Những cuộc chiến tranh hiếm khi được tài trợ mà không có sẵn ngân khố và thậm chí, chúng không được phép xảy ra nếu không có những khoản tăng thuế. Nếu các chính phủ thu thuế của dân chúng đầy đủ, tương xứng với mâu thuẫn tài chính thì số lượng sẽ lớn hơn nhiều và thậm chí, hầu hết các nhà hỗ trợ hăng hái của nó cũng sẽ mất cả nhiệt huyết. Tuy nhiên, nhờ việc tăng giả tạo nguồn cung ứng tiền tệ mà chi phí thực đã bị ẩn đi. Dĩ nhiên, nó vẫn được thanh toán nhưng là thông qua lạm pháp - một quá trình mà ít người hiểu được. Cuộc Cách Mạng ở Mỹ không phải ngoại lệ. Nhằm thanh toán hóa đơn cho sự độc lập mà cả Quân Liên minh lẫn các bang riêng biệt đều tham gia vào việc in tiền. Ngay từ khi bắt đầu chiến tranh năm 1775, tổng nguồn cung ứng tiền tệ là 12 triệu đô-la. Đến tháng Sáu năm đó, Quốc hội Lục địa đã phát hành thêm 2 triệu đô-la nữa. Thậm chí trước khi số tiền này được đưa vào lưu thông thì một khoản khác 1 triệu đô-la đã được thông qua. Cuối năm đó, một khoản khác nữa được đưa ra trị giá 3 triệu đô-la. Năm 1776 là 9 triệu đô-la. Năm 1777 là 13 triệu đô-la. Năm 1778 là 64 triệu đô-la. Năm 1779 là 125 triệu đô-la. Và vẫn còn tiếp: Quân đội Lục địa đã phát hành các “chứng chỉ” của riêng mình nhằm giành lấy các nguồn cung ứng với tổng trị giá 200 triệu đô-la. Khoản tổng trị giá 425 triệu đô-la trong năm năm bắt nguồn từ 12 triệu đô-la là mức tăng hơn 350%. Và bên cạnh đó, sự mở rộng của nguồn cung ứng tiền có quy mô này về phía chính quyền trung ương phải được hiểu là các chính quyền đều thực hiện chính xác cùng một việc. Người ta ước tính rằng chỉ trong năm năm từ 1775 đến 1779, tổng nguồn cung ứng tiền đã được mở rộng tới 500%. Trái lại, khoản tiền được tăng lên theo thuế qua giai đoạn năm năm lại không hợp lý vì tổng số chỉ có vài triệu đô-la. LẠM PHÁT VỚI QUY MÔ LỚN Tác động hồ hởi đầu tiên của dòng chảy tiền mới này là tình trạng đột nhiên thịnh vượng tương ứng nhưng nhanh chóng theo sau đó là nạn lạm phát như một cơ chế tự phá hủy bắt đầu vận hành. Năm 1775, tiền giấy Lục địa được trao đổi theo một đô-la tiền vàng. Năm 1777, mức này chỉ còn hai mươi tư cent. Tới năm 1779, chỉ bốn năm sau khi phát hành, giá trị chỉ còn chưa đầy một xu. Câu nói “Không đáng một xu” được bắt nguồn trong thời kỳ ảm đạm này. Một đôi giày được bán với giá 5.000 đô-la. Một bộ quần áo trị giá cả triệu đô-la. Trong năm đó, chính George Washington đã viết “Một chiếc xe bò chở đầy tiền sẽ chỉ vừa đủ mua được một xe bò chất đầy thực phẩm.”[11] Thậm chí Benjamin Franklin đã bắt đầu nhìn thấy ánh sáng. Trong tâm trạng mỉa mai, ông đã viết: Thứ Tiền tệ này, như chúng ta quản lý nó, là một cỗ máy tuyệt vời. Nó thực hiện Chức vụ của mình khi chúng ta ban hành, trả lương và sắm quần áo cho Quân đội cũng như cung cấp Thức ăn, Đồ uống và Đạn dược. Và khi chúng ta bị buộc phát hành Số lượng quá nhiều thì nó tự hối lộ mình bằng Sự phản kháng.[12] Khi nói về việc sử dụng số tiền thâm hụt, người ta thường nghe thấy lời phàn nàn rằng chúng ta đang dồn trách nhiệm cho các thế hệ tương lai bằng tờ hóa đơn cho cái đang được hưởng thụ ngày nay. Tại sao không để những thế hệ đó chi trả cho điều cũng mang lại lợi ích cho họ? Đừng để bị thất vọng. Đó chính là khái niệm sai lệch mà các chính trị gia vẫn cổ vũ để vỗ về dân chúng. Như những tay thực dân nhận thức được, khi tiền trở thành pháp định thì bất cứ tòa nhà chính phủ nào, công việc nào hay bất cứ khẩu thần công nào cũng đều được thanh toán hoàn toàn bằng sức lao động và của cải hiện tại. Những thứ này phải được xây dựng hôm nay với sức lao động của hôm nay và những con người thi hành sức lao động đó cũng phải được thanh toán hôm nay. Nó đúng rằng, những khoản thanh toán lãi chuyển bớt phần sang cho các thế hệ tương lai, nhưng chi phí ban đầu được những người hiện tại thanh toán. Nó được thanh toán bằng khoản lỗ về giá trị theo đơn vị tiền tệ và khoản lỗ về sức mua đối với mức lương của mọi người. LẠM PHÁP LÀ KHOẢN THUẾ NGẦM Tiền pháp định là phương tiện mà nhờ đó các chính phủ giành được sức mua không cần thuế. Nhưng sức mua đó xuất phát từ đâu? Vì khi tiền pháp định không có giá trị hữu hình để bù lại thì sức mua pháp định của chính phủ có thể chỉ đạt được bằng việc lấy nó từ một nơi nào khác. Trên thực tế, nó “được thu về” từ tất cả chúng ta thông qua sự suy tàn theo sức mua của chúng ta. Vì thế, nó chính xác cũng giống như một khoản thuế, nhưng là một khoản thuế được ẩn đi không nhìn thấy, im lặng hoạt động và ít được hiểu bởi người nộp thuế. Năm 1786, Thomas Jefferson đã đưa ra sự giải thích rõ ràng về quá trình này khi viết: Mọi người đã để mất giá trị của cái được ghi trên tờ hóa đơn đã thông qua mà mình cầm trong tay trong suốt thời gian giữ nó. Đây là khoản thuế thực sự dành cho anh ta; theo cách này, những người dân Mỹ thực sự đã đóng góp hàng triệu đô-la đó trong suốt cuộc chiến tranh và bởi một phương thức đánh thuế ngột ngạt nhất vì thất thường nhất.[13] KIỂM SOÁT GIÁ VÀ LUẬT TIỀN tệ chính thức Ngay khi giá cả tăng vọt, các thuộc địa đã ban hành các kiểm soát về lương và giá, thứ được coi như còi khóa tự động của ấm đun nước pha trà với mục đích giữ cho nước khỏi trào ra. Khi điều đó thất bại, có một loạt luật tiền tệ chính thức khắc nghiệt được đưa ra. Một luật như vậy thậm chí còn viện dẫn tới bóng ma của sự phản quốc khi nói rằng: “Từ nay về sau, bất kỳ ai đánh mất đạo đức và quan tâm đối với Đất nước mình như từ chối nhận tiền giấy được dùng trong thanh toán… kẻ đó sẽ bị quy kết và đối xử như kẻ thù của Đất nước này và sẽ bị ngăn cấm tham gia tất cả các giao dịch thương mại hoặc trao đổi tình cảm với những người dân của những thuộc địa này.”[14] Rhode Island không chỉ bị thu tiền phạt nặng vì không chấp nhận tiền giấy mà còn bị xử theo điều thứ hai, như một cá nhân bị tước quyền công dân. Khi tòa án tuyên bố hành động trái pháp luật, cơ quan lập pháp đã thông báo cho các quan tòa trước khi xử án và ngay lập tức đuổi cổ kẻ phạm tội từ trong văn phòng.[15] HỖN LOẠN KINH TẾ VÀ CUỘC NỔI DẬY Nếu cảnh tàn phá của chiến tranh là gánh nặng tàn nhẫn đè lên các thuộc địa thì sự tàn phá của tiền pháp định cũng ngang bằng. Sau chiến tranh, nạn lạm phát đã gây ra tình trạng giảm phát vì thực tế đã quay trở lại thị trường. Giá cả rớt xuống chóng mặt - một điều thật tuyệt vời cho những người mua hàng. Nhưng đối với các thương nhân, những người bán hàng hoặc những nông dân từng vay nhiều tiền để kiếm được tài sản nhờ thổi phồng giá lên cao trong thời chiến thì đây đúng là thảm họa. Những mức giá mới thấp hơn đã không đủ để duy trì được những khoản thế chấp lớn, cố định và nhiều gia đình phải làm việc vất vả đã lâm vào cảnh phá sản bởi những khoản tịch thu thế nợ. Vì thế, nhiều người vẫn không hiểu được quá trình lạm phát và không ít người vẫn tiếp tục ủng hộ “phương thuốc tiền giấy”. Một số bang đã tiếp thu sức ép này và các máy in tiền của họ vẫn tiếp tục hoạt động. Nhà sử học Andrew McLaughlin nhớ lại quang cảnh thường thấy ở Rhode Island vào thời gian này như đã được một khách tham quan người Pháp chứng kiến: Một khách du lịch người Pháp đã đi qua Newport vào thời gian xảy ra bức tranh ảm đạm của nơi này: những người đàn ông nhàn rỗi đứng khoanh tay ở các góc phố, các căn nhà dần đổ nát, những cửa hàng nghèo nàn chẳng có gì để bán ngoài một vài món đồ thô thiển, … cỏ mọc đầy đường, các cánh cửa sổ được che bằng những miếng vải vụn rách nát, mọi nơi đều đang hiện lên cảnh nghèo khổ, thành quả của tiền giấy và ảnh hưởng của chính quyền tồi. Những thương nhân đóng cửa các cửa hàng của mình còn hơn là nhận tiền giấy, những người nông dân từ các bang láng giềng không còn quan tâm tới việc mang bán sản phẩm của mình.[16] Sự nhàn rỗi và tình trạng đình trệ kinh tế cũng dẫn tới những cuộc bùng phát về phiến loạn và nổi dậy. Năm 1786, George Washington đã viết thư cho James Warren: “Những bánh xe của chính phủ đã bị mắc kẹt và … chúng tôi đang đi dần vào thung lũng của sự lộn xộn và bóng tối.”[17] Hai năm sau, trong một bức thư gửi cho Henry Knox, ông nói: “Nếu … bất kỳ người nào từng nói với tôi rằng ở đó từng tồn tại một cuộc nổi loạn dữ dội như vậy, tôi đã nghĩ anh ta là một kẻ điên, một đề tài phù hợp cho bệnh viện tâm thần.”[18] Thật may mắn khi có một kết thúc vui vẻ cho phần này của câu chuyện. Như chúng ta sẽ thấy trong chương sau, khi chính phủ cử đại diện tập hợp lại để soạn thảo Hiến pháp, những ảnh hưởng của tiền pháp định còn quá rõ trong suy nghĩ từng người nên họ đã quyết định chấm dứt nó ngay lập tức và mãi mãi. Tuy nhiên, sau đó, nền cộng hòa mới không chỉ nhanh chóng khôi phục lại mà còn tiếp tục biến nó trở thành sự thèm muốn của thế giới - ít nhất là lúc này - cho đến khi bài học bị quên lãng bởi các thế hệ sau. Nhưng đó lại là việc bắt đầu câu chuyện của chúng ta. Còn giờ đây, chúng ta đang bàn về chủ đề tiền pháp định và kinh nghiệm của những thuộc địa nước Mỹ là ví dụ điển hình của cái luôn xảy ra khi con người không chịu nổi lời báo động của nó. QUY LUẬT TỰ NHIÊN SỐ 3 Chúng ta hãy tạm dừng ở đây và theo dõi một bài học nữa được rút ra từ nhiều thế kỷ trải nghiệm. Bài học này quá rõ ràng, quá phổ biến và quá lớn xuyên suốt lịch sử mà có thể được giải thích như quy luật tự nhiên về hành vi con người: BÀI HỌC: Tiền pháp định là tiền giấy không có sự trả chậm bằng kim loại quý còn mọi người bị luật pháp yêu cầu chấp nhận. Nó cho phép các chính trị gia tăng chi tiêu mà không cần tăng thuế. Tiền pháp định là nguyên nhân của lạm pháp còn lượng tiền mà mọi người đánh mất theo sức mua chính xác là lượng tiền được lấy từ họ và chuyển vào chính phủ bởi quá trình này. Vì thế, lạm pháp là khoản thuế ngầm. Khoản thuế này không công bằng nhất vì nó chuyển phần lớn vào những người có khả năng thanh toán ít nhất: những người với mức lương thu nhập nhỏ bé và cố định. Nó cũng ngược đãi sự thịnh vượng bằng cách ăn mòn giá trị tiết kiệm của dân chúng. Điều này tạo nên sự oán giận giữa dân chúng, luôn dẫn tới sự bạo động chính trị và chia rẽ đất nước. Vì vậy: QUY LUẬT: Một quốc gia phải viện tới việc sử dụng tiền pháp định là tự đày đọa chính mình với sự khó khăn về kinh tế và chia rẽ về chính trị. TIỀN DỰ TRỮ CỤC BỘ Bây giờ, chúng ta cùng trở lại hình thái thứ tư và có khả năng cuối cùng của tiền: khái niệm gây tò mò nhất được gọi là tiền dự trữ cục bộ. Và để hiểu được điều này hoạt động ra sao, chúng ta phải quay lại châu Âu và thực tế về những người thợ kim hoàn thời đầu, những người đã cất giữ những đồng tiền kim loại quý của các khách hàng để lấy phí. Ngoài những người thợ kim hoàn cất giữ những đồng tiền đúc, còn có tầng lớp khác, các thương gia, được gọi là “người cho vay tiền”, những người cho vay những đồng tiền đó. Những người thợ kim hoàn đã lý giải rằng họ, cũng có thể hành động như các thương gia, nhưng lại thực hiện điều đó bằng tiền của người khác. Họ nói rằng, thật tiếc khi thấy tất cả những đồng tiền đúc đó chỉ nằm nhàn rỗi trong hầm của mình. Tại sao không cho vay chúng đi và kiếm lời rồi sau có thể chia chác chỗ đó giữa họ với những người gửi tiền? Hãy để nó hoạt động thay vì chỉ chất đống lại. Họ từng học hỏi từ kinh nghiệm rằng bao giờ cũng thế, rất ít người gửi tới lấy đi số tiền đúc đó cùng một lúc. Thực tế, những lần rút thực hiếm khi vượt quá mười đến mười lăm phần trăm kho dự trữ của họ. Nó có vẻ hoàn toàn an toàn để cho vay tới tám mươi hoặc thậm chí tám mươi lăm phần trăm số tiền đúc của họ. Và vì vậy, những người thủ kho bắt đầu hành động như những người môi giới cho vay thay cho những người đi gửi và khái niệm ngân hàng đã được sinh ra như chúng ta biết ngày nay. Đó cũng chính là cách mà nhiều cuốn sách lịch sử đã miêu tả, nhưng có dính dáng nhiều hơn, đây chỉ đơn thuần đưa tiền nhàn rỗi ra hoạt động. Quan trọng hơn là việc chia chác thu nhập lãi với những người sở hữu khoản tiền gửi không phải là phần quan trọng của khái niệm ban đầu. Điều đó chỉ trở thành thực tế phổ biến nhiều năm sau này sau khi những người gửi tiền trở nên bị vi phạm trắng trợn và cần được cam đoan lần nữa rằng những khoản vay này theo mức lãi rõ ràng. Và ngay từ đầu, họ thậm chí đã không biết rằng những đồng tiền của mình đang được cho vay hết. Họ suy nghĩ ngây thơ rằng những người thợ kim hoàn đang cho vay tiền riêng của họ. NHỮNG KHOẢN TIỀN gửi không có sẴn để cho vay Trong phần thứ hai, chúng ta cần xem xét liệu đồng tiền ở trong kho dự trữ thậm chí có sẵn dành cho vay không - bất chấp dù có hay không những người gửi được nhận lại một phần lợi nhuận. Chúng ta hãy cùng giả sử rằng mình đang chơi trò xì phé tại nhà của Charlie Smith. Mỗi chúng ta đưa 20 đô-la cho Charlie - người thực hiện như chủ ngân hàng và đặt tiền của chúng ta vào hộp giày rồi lần lượt đưa lại cho chúng ta hai mươi thẻ bài xì phé. Giờ cần hiểu rằng, bất cứ khi nào muốn về nhà, chúng ta có thể lấy lại một đô-la cho từng thẻ bài đang có lúc này. Bây giờ, chúng ta cùng giả sử rằng Larry, anh rể của Charlie, xuất hiện và không chơi bài xì phé nhưng lại cần vay một khoản tiền. Sáu người chúng ta vừa đưa ra 20 đô-la một người nên tổng số có 120 đô-la trong hộp giày và vừa trùng khít với số tiền mà Larry cần. Bạn có thể tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu Charlie quyết định cho vay hết khoản tiền “nhàn rỗi” đó. Nó không có sẵn để cho vay. Cả Charlie lẫn bất cứ người chơi nào đều không có quyền cho mượn những đồng đô-la đó bởi đều đang bị bản giao kèo nắm giữ, vì vậy mới nói tạm dừng thực hiện bản hợp đồng giữa Charlie và những người khách của anh ta. Thậm chí những đồng đô-la đó không còn tồn tại như tiền nữa. Chúng vừa được thay thế - ít nhất theo khái niệm - bằng những thẻ bài pocker. Nếu bất kỳ ai trong chúng ta có bị mủi lòng bởi câu chuyện của Larry tới mức quyết định cho anh ta vay khoản tiền đó thì sẽ phải làm việc đó bằng những đồng đô-la khác hoặc lĩnh tiền mặt qua những thẻ bài của mình để lấy lại những đồng đô-la trong hộp giày. Dĩ nhiên, trong trường hợp đó, chúng ta không thể còn tham gia trò chơi được nữa. Chúng ta không thể sử dụng, cho vay hoặc đem cho khoản tiền gửi và cũng không thể coi các thẻ bài trở thành bất kỳ thứ gì giá trị. Nếu bạn là thành viên của một tổ chức và ủy nhiệm cho bạn của mình đi bầu chọn trong trường hợp bạn vắng mặt tại cuộc họp thường niên thì sau đó, bạn không thể xuất hiện và lại bỏ thêm lá phiếu của chính mình bên cạnh lá phiếu được ủy quyền kia. Nói một cách khác, trong thời kỳ đầu của ngành ngân hàng, các chứng chỉ được lưu hành như tiền thực tế chính là những ủy quyền đối với những đồng tiền đó. Do vậy, những đồng tiền đó không có sẵn để cho vay. Giá trị tiền tệ của chúng vừa được gán thành những chứng chỉ. Nếu muốn cho vay khoản tiền của mình, trước tiên những người giữ chứng chỉ này nên rút ngay khỏi những chứng chỉ đó. Họ không được quyền giữ những tờ tiền giấy có khả năng tiêu pha đó nữa và cũng không ủy quyền được cho chủ ngân hàng của những tờ giấy đó cho mượn khoản tiền bằng vậy. Mọi người không thể sử dụng, cho vay hoặc đem cho những đồng tiền và cũng không thể coi các chứng chỉ trở thành bất kỳ thứ gì giá trị. Tất cả điều này chỉ là ý thức chung. Nhưng có một khía cạnh khác đối với vấn đề phải thực hiện bằng tính trung thực trong các hợp đồng kinh doanh. Khi sử dụng những đồng tiền này như cơ sở cho những khoản vay, các chủ ngân hàng đều đang đặt mình vào vị thế không có đủ tiền trong kho dự trữ để thực hiện tốt theo những bản hợp đồng của mình, thời điểm dành cho những người gửi tiền đến lấy tiền mang về nhà. Nói cách khác, những bản hợp đồng mới đã được lập nên với đầy đủ hiểu biết rằng, trong những hoàn cảnh cụ thể, chúng sẽ phải bị phá vỡ. Nhưng các chủ ngân hàng chẳng bao giờ thấy phiền khi giải thích điều đó bởi đại đa số dân chúng đều được làm cho tin rằng, nếu chấp nhận việc đưa những khoản tiền được cho là nhàn rỗi này vào hoạt động thì họ sẽ đang giúp nền kinh tế và kiếm thêm được một chút lời bên cạnh đó. Nó quả là một đề nghị hấp dẫn và ý tưởng được nắm bắt rất nhanh. HỆ THỐNG DỰ TRỮ CỤC BỘ Dĩ nhiên, hầu hết những người vay tiền đều muốn tiền giấy chứ không phải những đồng tiền đúc cồng kềnh vì vậy, khi nhận được những khoản vay của mình, họ luôn để lại những đồng tiền đúc đó vào trong kho dự trữ cho an toàn. Những đồng tiền đó sau trở thành những hóa đơn được ra cho những khoản tiền gửi như chúng ta vừa quan sát, thực sự đã được chấp nhận trong thương mại như tiền tệ. Tới lúc này, mọi việc bắt đầu trở nên phức tạp. Những người gửi tiền ban đầu từng được nhận những hóa đơn thay cho tất cả tiền đúc của ngân hàng. Nhưng lúc này, ngân hàng đã phát hành những khoản vay chiếm tới tám mươi lăm phần trăm lượng tiền gửi của mình và những người vay được nhận những hóa đơn cho đúng khoản tiền đó. Những hóa đơn bên cạnh những hóa đơn gốc. Điều đó tạo nên 85% hóa đơn nhiều hơn cả tiền đúc. Do đó, các ngân hàng đã tạo ra 85% tiền nhiều hơn và đưa chúng vào lưu thông qua những người vay của mình. Nói cách khác, bằng việc phát hành những hóa đơn giả, họ đã mở rộng nguồn cung ứng tiền một cách giả tạo. Và lúc này, các chứng chỉ không còn đủ 100% trả chậm bằng vàng. Giờ đây, chúng chỉ được trả chậm còn 54%[19], nhưng vẫn được chấp nhận bởi niềm tin của dân chúng rằng giá trị vẫn ngang như những hóa đơn cũ. Dù thế nào, vàng vẫn đứng sau tất cả và bây giờ lại đại diện chỉ một phần nhỏ mệnh giá của tiền. Vì thế, những hóa đơn này trở thành cái được gọi là tiền dự trữ và quá trình tạo ra chúng được gọi là hệ thống dự trữ cục bộ. Đáng tiếc là không một sự thâm hụt nào được giải thích bao giờ. Các chủ ngân hàng đã quyết định rằng tốt hơn hết là không bàn cãi thực tại nơi dân chúng có thể nghe thấy. Những yếu tố này trở thành những bí quyết bí truyền trong nghề. Những người gửi chẳng bao giờ được khuyến khích đặt câu hỏi làm thế nào các ngân hàng có thể cho vay hết tiền của mình mà vẫn có sẵn trong tay để trả lại theo yêu cầu ngay lập tức. Thay vào đó, các chủ ngân hàng còn mang dáng vẻ đường bệ đáng được tôn trọng, kiên định và có trách nhiệm giải trình; ăn vận và hành động nghiêm túc dù không lạnh lùng; xây dựng những dinh thự lớn giống như những tòa nhà và thánh đường của chính phủ, tất cả để ủng hộ hình ảnh thất bại của việc có đủ khả năng để nhận trả đúng hẹn những hợp đồng của mình nhằm thanh toán theo nhu cầu. Đây là những gì mà John Maynard Keynes đã quan sát: Một chủ ngân hàng “có tiếng”, chao ôi! Không phải là một người thấy trước được nguy hiểm và tránh nó nhưng là một người mà khi bị phá sản, bị phá sản theo cách quy ước và chính thống cùng với những người bạn của mình, đến nỗi không một ai có thể thực sự khiển trách được anh ta. Nó là phần thực sự cần thiết thuộc về công việc kinh doanh của một chủ ngân hàng để duy trì vẻ bề ngoài và để thừa nhận sự đáng tôn trọng thông thường nhiều hơn là có tính người. Những thực tế muôn thủa của sự tử tế này làm cho họ trở thành những người đàn ông lãng mạn nhất và ít thực tế nhất.[20] TẠO TIỀN TỪ NỢ Chúng ta hãy cùng lùi lại một chút và phân tích. Ngay từ đầu, các ngân hàng đã hoạt động như những nơi giữ tiền an toàn cho các khách hàng của mình. Khi phát hành những hóa đơn giấy thay cho các đồng tiền, họ đã chuyển tiền hàng thành tiền hóa đơn. Đây là thuận lợi lớn nhưng không làm thay đổi được nguồn cung ứng tiền. Mọi người đã có lựa chọn sử dụng tiền hoặc giấy chứ không thể dùng cả hai. Nếu họ sử dụng tiền thì không bao giờ được dùng hóa đơn. Còn nếu họ dùng hóa đơn thì tiền vẫn được giữ trong kho và không được lưu thông. Khi từ bỏ thực tế này và bắt đầu phát hành các hóa đơn cho những người vay tiền, các ngân hàng đã trở thành những pháp sư. Một số nói họ tạo ra tiền từ không khí nhưng điều đó là không đúng. Cái họ làm thậm chí còn hơn cả sức tưởng tượng. Họ đã tạo ra tiền từ nợ. Rõ ràng, vì với mọi người việc chuyển thành nợ dễ hơn đào vàng. Do đó, tiền không còn bị hạn chế bởi những lực lượng tự nhiên về cung và cầu nữa. Và theo quan điểm lịch sử tiến bộ, nó chỉ bị giới hạn bởi trình độ mà các chủ ngân hàng từng có đủ khả năng để đẩy xuống dự trữ vàng cục bộ của những khoản tiền gửi. Từ góc nhìn này, giờ đây chúng ta có thể quay lại tiền dự trữ và nhận thấy rằng đó thực sự là hình thức chuyển đổi giữa tiền hóa đơn và tiền pháp định. Nó có một số đặc tính của cả loại tiền này. Khi tiền dự trữ trở nên nhỏ hơn thì tiền hóa đơn cũng nhỏ theo tương ứng và tới gần sát tiền pháp định. Cuối cùng khi mức dự trữ bằng không, nó tạo nên sự chuyển tiếp hoàn toàn và trở thành pháp định thuần túy. Hơn nữa, không có ví dụ nào trong lịch sử mà con người từng chấp nhận khái niệm tiền dự trữ lại không ngày càng làm cho mức dự trữ thấp hơn trừ phi, thực tế nó trở thành không. Không ngân hàng nào có thể đứng vững trong kinh doanh suốt thời gian dài với mức dự trữ bằng không. Cách duy nhất làm cho mọi người chấp nhận tiền tệ vô giá trị như vậy là quyền lực chính phủ. Đó chính là những luật tiền tệ chính thức. Vì vậy, sự chuyển tiếp từ tiền dự trữ cục bộ thành tiền pháp định đòi hỏi sự tham gia của chính phủ thông qua cơ chế được gọi là ngân hàng trung ương. Hầu hết cân đối của sổ sách kế toán ở đây sẽ được dành cho bản nghiên cứu của Âm mưu đó, nhưng trong lúc này, chỉ cần nói rằng tình trạng nhởn nhơ của việc đủ khả năng tạo ra tiền từ công sức của con người lớn tới mức một khi sử dụng một liều thuốc mê như vậy, không có chính trị gia hoặc chủ ngân hàng nào có thể bỏ được thói quen. Như William Sumner quan sát thấy: “Một người có thể hào hứng như leo lên vách núi song đang có ý định dừng lại giữa chừng.”[21] QUY LUẬT TỰ NHIÊN SỐ 4 Và vì vậy, một lần nữa, chúng ta lại có một bài học về những quy luật tự nhiên này đúc rút từ hàng thế kỷ trải nghiệm của con người. Nó có thể được giải thích như sau: BÀI HỌC: Tiền dự trữ là tiền giấy mà được trả chậm bằng những kim loại quý dựa trên phần chia của tổng mệnh giá. Nó là tiền lai mang trong mình một phần tiền hóa đơn và một phần tiền pháp định. Nhìn chung, dân chúng không nhận thấy được thực tế này và tin rằng tiền dự trữ có thể được bù lại đầy đủ vào bất cứ lúc nào. Khi sự thật này được khám phá, như từng diễn ra trước đây, liền có những đợt rót tiền ào ạt ra khỏi ngân hàng và chỉ một số người gửi lúc đầu mới có thể được thanh toán. Và từ khi tiền dự trữ thu được lãi nhiều cho các chủ ngân hàng như vàng hoặc bạc từng làm thì sự quyến rũ của nó trở nên lớn hơn nếu được tạo ra càng nhiều càng tốt. Ngay khi điều này diễn ra, tiền dự trữ đại diện cho mức dự trữ ngày càng trở nên nhỏ hơn tới mức cuối cùng giảm xuống bằng không. Vì vậy: QUY LUẬT: Tiền dự trữ sẽ luôn thoái hóa thành tiền pháp định. Nhưng nó không phải là tiền pháp định trong khi chuyển tiếp. Như vậy là quá nhiều cho những đặc tính chung và tổng quát. Trong chương sau, chúng ta sẽ thấy những gì lịch sử phải nói về quá trình này. Và đó chính là lịch sử! TỔNG KẾT Tiền pháp định là tiền giấy không có sự trả chậm bằng kim loại quý mà mọi người bị luật pháp yêu cầu chấp nhận. Sự xuất hiện được ghi nhận đầu tiên của tiền pháp định là vào thế kỷ thứ mười ba ở Trung Quốc nhưng không sử dụng trên quy mô lớn cho tới khi xuất hiện ở thuộc địa của Mỹ. Sự trải nghiệm thật thảm khốc, dẫn tới lạm pháp, thất nghiệp, mất tài sản và bất ổn chính trị quy mô lớn. Trong suốt quãng thời gian khi Ngân hàng Anh buộc các thuộc địa từ bỏ tiền pháp định của họ thì sự thịnh vượng chung đã nhanh chóng quay trở lại. Cuộc Nội chiến đã đưa tiền pháp định trở lại các thuộc địa hơn cả mong đợi. Tình trạng hỗn loạn kinh tế xảy ra chính là kết quả đã dẫn tới các chính phủ thuộc địa áp đặt các kiểm soát giá cả và những luật tiền tệ chính thức thô bỉ, mà chẳng điều nào mang lại hiệu quả. Tiền dự trữ được định nghĩa như tiền giấy được trả chậm bằng những kim loại quý từng phần, không phải tất cả, theo giá trị mệnh giá của nó. Nó được giới thiệu ở châu Âu khi những người thợ kim hoàn bắt đầu phát hành các hóa đơn thay vàng mà họ không có, vì thế, chỉ có tiền dự trữ của những hóa đơn được bù lại. Tiền dự trữ luôn thoái hóa thành tiền pháp định thuần túy.