Bạch Nhật Quỷ Hồn - Chương 13 - phần 2

Tống Chiêu Dương đã đạt đến tinh túy của pho kiếm nên có thể cầm đồng với một cao thủ lão thành Tây Môn Thủy. Dù vậy công lực gã kém hơn nên càng kéo dài cuộc chiến thì càng bất lợi. Chiêu Dương đã nhiều lần xuất kỳ chiêu mong lấy mạnh đối phương, nhưng ®o ®nh thân pháp của Tây Môn Thủy nhanh nhẹn phi thường nên chẳng hề hấn gì. Lão liên tục bủa chưởng vây chặt đối thủ, chưởng ảnh trùng trùng, điệp điệp như mây mù, tựa màn lưới to bền chắc gò bó thanh trường kiếm của Chiêu Dương.

Hãn Thanh thấy Ngũ Phán Quan bỏ qua nhiều cơ hội tốt thức ngộ rằng lão đã vì chàng mà kéo dài trận đấu, để chàng nắm được kiếm ý của Phù Dung kiếm pháp. Lão sợ chàng không địch lại Phù Dung phu nhân, cố dằn lòng nóng giận, tạo ưu thế cho Hãn Thanh!

Mạc Phu nhân cũng đã nhận ra thâm ý của Tây Môn Thủy. Bà ta cau mày bảo:

- Dương nhi không địch lại đệ tử của ®o ®nh Thần Quân đâu, hãy dừng tay lại đi.

Tống Chiêu Dương vì sĩ diện mạo hiểm xuất một chiêu rất ác độc. Gã suốt đời nép bên váy mẹ, chưa hề chịu khổ đau nên lòng hiếu thắng rất mãnh liệt. Tiếc rằng, chiêu thức càng nhiều sát khí thì càng lộ nhiều sơ hở, do công đáo nhiều hơn thủ. Lại thêm Tây Môn Thủy đang nuôi ý định sát hại họ Tống nên chẳng hề nương tay. Mắt lão tỏa hàn quang, song thủ ve vẩy, xuất chiêu Huyễn Hoặc Phù Sinh, lao thẳng vào màn kiếm quang.

Mạc phu nhân kinh hãi rú lên, nhưng không còn kịp nữa, mũi kiếm của Tống Chiêu Dương vừa chạm ngực đối phương thì một đạo chưởng phong đã vỗ vào bụng gã. Họ Tống hự lên đau đớn, văng ngược ra phía sau, máu miệng phun thành vòi, ngã ngửa ra sau ngất lịm.

Phù Dung phu nhân vội chạy đến nhét vào miệng ái tử ba viên linh đan và truyền công chữa trị ngay!

Gần khắc sau, bà ta thở phào đứng lên, bảo bọn tỳ nữ khiêng Chiêu Dương vào trong rồi quay sang trút hận lên đầu bọn Hãn Thanh. Gương mặt Mạc Đang Quỳnh vốn đã xấu xí vì những nếp nhăn của tuổi già, nay tái nhợt đi vì căm hận và đôi mắt chói lọi tia nhìn oán độc. Mụ rít lên the thé:

- Con trai lão thân cứu mạng Đạm Vân, không được ơn mà còn bị đánh cho suýt chết. Lão thân quyết không tha cho các ngươi đâu!

Hãn Thanh cười lạnh:

- Tống Chiêu Dương học thói tiểu nhân, thi ân cần báo, đó là tự chuốc lấy tai họa, phu nhân còn trách được ai nữa?

Mạc Đang Quỳnh nhặt thanh trường kiếm của Tống Chiêu Dương Đang nằm dưới đất Gằn giọng bảo:

- Hôm nay lão thân sẽ đòi luôn món nợ mà Cao lão quỉ đã vay năm xưa!

Mụ rút trâm, xõa mái tóc bạc phơ thưa thớt xuống. Rồi chậm rãi bước ra.

Hãn Thanh nào lạ gì phép phóng cổ độc, biến sắc bảo nhỏ Tây Môn Thủy:

- Ngũ thúc mau lui ra bốn trượng bà ta sắp thả cổ trùng đấy!

Ngu phán quan lo lắng:

- Còn Thanh nhi thì sao?

Hãn Thanh nháy mắt trấn an lão. Tây Môn Thủy hiểu ý, cười ha hả nói:

- Một mình Thanh nhi cũng đủ, lão phu sẽ làm trọng tài!

Dứt lời, lão rời xa trận địa, ung dung đứng chắp tay sau lưng, lão phát hiện Tiểu Linh Miêu Lý Tữu Tuyền đã âm thầm đi mất dạng từ lâu rồi!

Tây Môn Thủy gật gù hài lòng vì biết gã hóa tử xảo quyệt kia đã tìm cách dọ thám sơn trang để tìm Đạm Vân!

Lúc này, Phù Dung phu nhân lên tiếng:

- Để khỏi mang tiếng hiếp đáp trẻ con, lão phu nhường ngươi đánh trước ba chiêu, chỉ thủ chứ không phản kích!

Hãn Thanh kính cẩn ôm kiếm chào rồi vung kiếm xuất chiêu Trích Tiên Tiến Tữu (Lý Bạch mời rượu). Đây là chiêu đầu của pho Nhất Nguyên Tâm Kiếm, hàm ý lễ độ, nhưng nếu đánh nhanh vẫn có thể giết người!

Phù Dung phu nhân giải phá dễ dàng bằng trường kiếm và mấy thức chưởng từ tay tả.

Đên chiêu thứ hai, Hãn Thanh vẫn chỉ dùng có ba thành công lực, đánh chiêu Trùng Phong Thạch Liễu. Dĩ nhiên Mạc phu nhân chẳng hề bối rối, phối hợp kiếm chưởng để đối phó!

Hãn Thanh bỗng nhận ta trong chưởng phương của mụ có mùi thơm là lạ, chỉ thoang thoảng như hương Bách Hoa Tịnh mà nữ nhân thường sức lên mái tóc. Chàng biết ngay đối plương đã âm thầm thả cổ trùng vào người mình.

Việc nhường ba chiêu chỉ là độc kế mà thôi.

Nhưng Hãn Thanh đã đọc hết quyển y kinh của Quế Lâm Y Øn Tiên Linh Nam Ở ém Dương Linh Cảnh nên biết rõ vị trí của cổ trùng. Chàng đưa lửa tam muội lên huyệt Ngọc Đường đốt cháy nó trước khi cổ trùng vào được đáy huyệt.

Hãn Thanh rất chán ghét những kẻ xảo quyệt hèn hạ, liền dùng toàn lực vào chiêu Kình Ngư Phân Lãng, dùng phép Ngự Kiếm mà xuất thủ. Phù Dung đắc ý niệm chú, tin rằng chân khí Hãn Thanh sẽ bế tắc và rơi nhanh xuống đất. Nào ngờ đối phương vẫn lao như mũi tên rời dây cũng. Mạc Đang Quỳnh kinh hãi vội dồn thêm chân khí vào chiêu kiếm, đồng thời tả thủ vỗ nhanh một chưởng như vũ bão.

Công lực bà ta thâm hậu hơn Hãn Thanh, nhưng để mất tiên cơ, rơi vào thế bị động nên rất thiệt thòi. Mũi kiếm của Hãn Thanh tập trung đầy chân khí rẽ sóng chưởng kình và xuyên thủng màn kiếm quang quanh người đối phương.

Mụ yêu bà không hổ danh đại ma đầu, dù thất thế vẫn kịp thoát lui để bảo toàn mạng sống. Mụ không chết nhưng ngực phải thủng một lỗ thấu phổi!

Phù Dung phu nhân đau đớn rên khẽ, ôm ngực tung mình đào tẩu vào nhà!

Hãn Thanh và Tây Môn Thủy đuổi theo, lục soát khắp nơi, nhưng chẳng thấy phu nhân và Tống Chiêu Dương đâu cả. Bọn tỳ nữ sợ xanh mặt quỳ cả xuống xin tha mạng.

Hãn Thanh dịu giọng bảo:

- Ta không giết các người đâu! Hãy chỉ cho ta nơi giam giữ Tề tiểu thư!

® nữ tỳ lớn tuổi nhất run rẩy thua:

- Bẩm công tử! Tề cô nương bị nhốt trong tòa thạch thất cuối vườn hoa, đằng sau hàng cây Mộc Cẩn già!

Loài cây này trồng lâu có thể đạt được chiều cao đến gần hai trượng, thân mọc sát nhau, cành lá rất rậm rạp, nên che kín thạch lao, khiến Hãn Thanh không nhìn thấy! Chàng mừng rỡ cùng Tây Môn Thủy đi theo ả tỳ nữ. Nhưng Tiểu Linh Miêu đã từ cuối vườn hoa chạy lên. Gã hớn hở nói:

- Bẩm Hầu gia! Đệ tử đã tìm được nơi giam giữ Tề phu nhân, mở được khóa cửa. Mời Hầu gia đến rước phu nhân ra! Còn Linh mã cũng được nhốt trong chuồng ở phía sau thạch lao!

Hãn Thanh nghe vậy biết Đạm Vân không đi được, mà Lý Tữu Tuyền chẳng dám đụng chạm vào người nàng nên mới gọi chàng đến.

Hãn Thanh nóng lòng lướt đi như gió thoảng. Đ ến nơi, chàng nghẹn ngào nhìn người vợ yêu đang nằm thiêm thiếp trên giường trong ngục!

Can Thạch thất này được trang trí rất hoa lệ, chẳng khác nào một khuê phòng của bậc công nương, nhưng các bậc song cửa sổ đều bằng thép rèn lớn cỡ cổ tay một tiểu đồng! Hãn Thanh biết nàng bị điểm huyệt liền giải tỏa. Đạm Vân mở mắt, ngơ ngác nhìn phu tướng tưởng như trong mộng.

Hãn Thanh quỳ xuốn bên giường ôm nàng thì thầm:

- Vân muội! Ta biết trời xanh không nỡ bắt tội uyên ương phải xa lìa mãi mãi!

Đạm Vân biết đây là sự thực, ôm đầu chàng khóc nức nở:

- Tướng công! Thiếp đã tưởng kiếp này không còn được gặp chàng!

Lát sau, chàng cố gượng ngồi lên vừa khóc vừa nói:

- Tướng công! Thiếp chỉ mong gặp chàng một lần để nói lời vĩnh biệt, vì thân này đã ô uế rồi, không xứng đáng hầu hạ chàng nữa!

Hãn Thanh hôn lên trán nàng, mỉm cười:

- Nàng quên ta là người thế nào sao? Việc không may ấy chẳng hề ảnh hưởng đến tình phu thê của chúng ta!

Tây Môn Thủy giận dữ gầm vang:

- Mả cha cái gã súc sinh họ Tống! Lão phu chỉ tiếc rằng không giết được gã!

Đạm Vân giờ mới nhận ra lão òa lên khóc:

- Ngũ thúc ơi! Vân nhi còn mặt mũi nào mà sống nữa?

Hãn Thanh nghe lòng đau như cắt, chỉ sợ ái thê quẩn trí quyên sinh, chàng bỗng nhớ đến Viên Nguyệt Hằng Nga Hà Hồng Hương, liền hỏi:

- Họ Tống đã làm gì nàng?

Đạm Vân hổ thẹn đáp:

- Hắn... hắn đã thấy... và đụng chạm khắp... thân thể thiếp!

Hãn Thanh phá lên cười, tát yêu vào má Đạm Vân:

- Nàng đúng là con ngốc! Như thế mà lại gọ là thất tiết hay sao? Té ra Hà Hồng Hương không kể rõ chuyện năm xưa, Hương muội đã từng bị địch cưỡng bức. Thế mà ta nào có xem là thất tiết, vẫn cưới nàng làm vợ. Quan niệm thất tiết trinh của người Hán quả là cổ hủ, vô lý. Người Cao Sơn chúng ta thường lõa thể tắm suối, đùa giỡn với nhau mà nào có sao?

Đạm Vân phụng phịu trách móc:

- Thế mà Hương muội kể rằng gã họ Hứa kia không hề lột được mảnh vải nào, và cũng chưa kịp chạm một ngón tay vào người nàng, thì đã bị tướng công đả thương rồi!

Hãn Thanh phì cười:

- Hương muội xấu hổ giấu giếm thế thôi, giờ nàng đã yên tâm chưa?

Tây Môn Thủy cười ha hả:

- Thôi đừng nhõng nhẽo nữa! Lão phu còn nhớ ngày ngươi lên năm vẫn thường trần truồng tắm mưa, cả U Linh Cốc ai cũng thấy, sao không vì thế mà tự sát quách cho xong đi?

Đạm Vân thẹn đỏ mặt:

- Ngũ thúc kỳ cục quá, ngày ấy Vân nhi còn nhỏ đâu biết gì?

Tây Môn Thủy gật gù:

- Thời gian trôi qua mau thực, thấm thoát đã hai mươi năm rồi!

Hãn Thanh buột miệng:

- Té ra Vân muội chỉ mới hai mươi lăm tuổi sao?

Tiểu Linh Miêu ôm bụng cười nắc nẻ:

- Chẳng lẽ Hầu gia không biết tuổi của phu nhân?

Hãn Thanh ngượng ngùng thú nhận:

- Ngày ấy Tề nhạc phụ nói rằng Đạm Vân đã ba mươi mấy. Ta đinh ninh như thế nên cũng chẳng hỏi lại!

Đạm Vân nguýt chàng:

- Tướng công quả là người chồng hiếm có trên đời! Thiếp đoán chắc rằng chàng cũng không hề biết tuổi thực của Trịnh đại thư!

Hãn Thanh cười mát:

- Ta đã lấy vợ ma với Hồ Ly mà còn hỏi tuổi tác làm gì?

Bỗng chàng giật mình hỏi:

- Thế Vân muội và Tiểu Thuần không cùng trôi dạt hay sao?

Đạm Vân buồn bã lắc đầu:

- Lúc thuyền bị vỡ, thiếp bị sóng cuốn đi, không rõ Trịnh đại thư sống chết thế nào cả! Biển tối đen vì mưa bão, chẳng thể nhìn thấy ai. Thiếp vùng vẩy một hồi lâu, may mắn tìm được cánh cửa khoang thuyền, lênh đênh mấy ngày trời mới dạt vào đảo hoang!

Hãn Thanh cau mày:

- Lạ thực! Nàng chỉ kiệt sức vì đói khát, sao lại lâu hồi phục như vậy! hay là Phù Dung đã hạ độc thủ để kéo dài tình trạng hư nhược này?

Đạm Vân gật đầu:

- Tướng công đoán không sai! Bà ta cho thiếp uống một loại thuốc độc mạn tích để ép thiếp phải lấy Tống Chiêu Dương. Thiếp ở thế cùng lực kiệt liền nghĩ ra diệu kế, bảo rằng sẽ đồng ý nếu tướng công chịu viết giấy từ hôn.

Tống Chiêu Dương tin vào bản lãnh Phù Dung phu nhân nên đã mắc mưu. Họ định dùng cổ trùng để khống chế và mê hoặc tướng công, nhưng thiếp biết chàng không sợ!

Năm ngày sau, bốn người về đến Lạc Dương, Hầu Phủ chưa xây xong nên mọi người vẫn ở trong tòa trang viện phía Đông thành. Thấy có cả Tề Đạm Vân, ai cũng vui mừng khôn xiết, lệ mừng tuôn như suối.

Trưa hôm sau, nỗi hân hoan tăng gấp bội, khi Thiết Địch Thần Y, Lục Phán Quan và U Linh Tứ Vệ cũng về đến. Thuyền của Hách Khai Nguyên đã tìm thấy họ trên đảo Liễu Kiều của Phù Tang!

Nhưng Hãn Thanh chỉ gượng cười vì an nguy của Tiểu Thuần luôn là nỗi đau đớn, ưu tư lớn nhất trong lòng chàng!

Tề Phi Tuyết an ủi Hãn Thanh:

- Ngay bốn gã ngốc U Linh Tứ Vệ mà còn thoát chết thì Thuần nhi đâu có gì đáng ngại? Cơn bão ấy tuy mãnh liệt nhưng không kéo dài, và địa điểm đắm thuyền lại rất gần với nhiều đảo nhỏ!

Hãn Thanh bùi ngùi đáp:

- Nhạc phụ dạy rất phải, nhưng ai biết được mệnh trời thề nào! Hơn nữa, tạo hóa ố toàn, lẽ nào lại chịu để cho tiểu tế được hưởng hạnh phúc trọn vẹn!

Mộ Dung Cẩn nghiêm khắc bảo:

- Cái luận điệu bi quan kia nào phải của Bất Biệt Cư Sĩ? Chẳng lẽ Thanh nhi không sở đắc được chút pháp môn Bất Nhị hay sao?

Hãn Thanh sợ hãi đáp:

- Tiểu tôn biết lỗi, mong gia gia lượng thứ!

Tứ phán quan Hiểu Ngộ vội đỡ lời:

- Thanh nhi còn quá trẻ, tình phu thê nồng thắm, tất tâm phải loạn trước sự mất tích quá lâu của Tiểu Thuần!

Lão Hầu gia dịu giọng:

- Đời là bể khổ, chuyện sinh tử ly biệt là chuyện tất yếu của tự nhiên.

Thanh nhi tuy được cận kề bậc chân nhân tu là Cao Cư Sĩ, nhưng vì còn nặng nghiệp quả nên khó thoát vòng tục lụy!

Thực ra Bất Biệt Cư Sĩ chính là một trưởng lão của chùa Vạn Niên Tự, thuộc phái Nga My, Cao Hán Ngọc xuất gia từ thưở ấu thơ, trí tuệ thuộc hàng thượng phẩm. Năm ba mươi tuổi, họ Cao kiến tánh, phát tâm Bồ Tát, rời chùa đi khắp thiên hạ, trà trộn với mọi tầng lớp, dùng lục độ mà cảm hóa, cứu khổ chúng sinh! (Lục Đồ gồm có đức:

Bố thí, tà giới, nhẫn nhục, tinh thấu, thiền định, trí tuệ.) Đại Phán Quan Diệp Lãm Trường cười khà khà:

- Lão phu học đạo đã sáu mươi năm mà vẫn chưa dám xưng là bậc chân nhân, thì Thanh nhi không có gì đáng trách cả!

Hồng Hương muốn tỏ lòng bênh vực trượng phu, liền thỏ thẻ:

- Bẩm gia gia, kể từ mai, tôn tức sẽ bắt tướng công phải ăn chay và tụng niệm như gia gia vậy!

Hà Hồng Tập phì cười:

- Sao con không bảo Thanh nhi thí phát quy y luôn cho rồi!

Vài ngày sau, Hãn Thanh nhận được thư của giáo chủ Thần Ngưu Giáo Quân Khải Siêu. Họ Quân báo rằng Hắc Hồ Bảo đã gửi thư khiêu chiến, hẹn sáng ngày mười bốn tháng tám sẽ đến chân núi Hoa Sơn để liễu kết hận thù!

Quân Giáo chủ lo ngại Sách Huyết Tôn Giả sẽ xuất hiện, nên mong mỏi Hãn Thanh đến trợ chiến!

Thư đến vào bữa ăn trưa nên mọi người đều đông đủ. Hãn Thanh đọc cho cả nhà nghe và tư lự bảo:

- Mười hai năm trước, Hắc Hồ Bảo Chủ Tôn Cự Mộc hạ sát bào đệ Quân giáo chủ là Quân Tôn Hiến. Thế lực Hắc Hồ Bảo rất hùng mạnh nên Quân Khải Siêu không báo được thù. Ông ta bèn tổ chức ra Thần Ngưu Giáo để phục hận cho em trai. Nhưng vì sao Hắc Hồ Bảo là người có lỗi lại khiêu chiến trước nhỉ?

Tề Phi Tuyết gật gù:

- Như vậy lần này chắc chắn Sách Huyết Tôn Giả cũng đến Hoa Sơn, nên Tôn Cự Mộc mới nắm chắc phần thắng như vậy!

Ngũ Phán Quan xen vào:

-Tiểu Linh Miêu báo rằng không hề thấy Vu Sơn Sơn Chủ và Nam Thiên Tổng Giám kéo tàn quân đến Diên An. Nếu chỉ một mình Sách Huyết Tôn Giả thì cũng chẳng đáng sợ lắm! Chỉ cần lão phu và Hãn Thanh đi là đủ!

Lục Phán Quan cằn nhằn:

- Sao Ngũ ca cứ đòi đi hoài vậy? Lần này đến phiên tiểu đệ mới phải chứ?

Nhất Bất Thông Chu Minh bật cười:

- Tòa trang viện này rất kín đáo, không sợ Vu Sơn Sơn Chủ biết mà tập kích. Cả hai vị cứ đi với Hãn Thanh cho chắc ăn. Bản lĩnh Phí tôn giả chẳng kém Bộc Ly Bôi là bao nhiêu đâu!

Nhưng Hãn Thanh lại không đồng ý:

- Tiểu điệt linh cảm rằng đây là kế điệu hổ ly Sơn của Vu Sơn Sơn Chủ.

Con người cao ngạo như lão chẳng bao giờ chịu nhẫn nại lâu đến thế. Tốt nhất là tiểu điệt sẽ đi một mình, chư vị Ở lại phòng thủ gia trang!

Đại phán quan nghe xong, bấn tay tính toán, rồi lo lắng nói:

- Quẻ rất xấu, có lẽ Thanh nhi đoán đúng!

Lạc Bình ái ngại bảo:

- Nếu vậy thì tướng công đừng đi nữa!

Hãn Thanh mỉm cười:

- Nàng nói gì lạ vậy? Vì đạo nghĩa làm người, ta đây đâu thể bỏ rơi Quân Giáo Chủ! Hơn nữa, hiện nay phe đối phương chỉ còn Vu Sơn Sơn Chủ và Tư Không Nhạ, trong khi chúng ta đông đủ thế này, lẽ nào sợ họ?

Lão Hầu Gia nghiêm giọng:

- Thanh nhi cứ lên đường đi! Việc ở nhà ngươi bất tất phải lo!

Sau đó, Chu Minh và Đại Phán Quan bắt tay củng cố tuyến phòng thủ gia trang. Còn Hãn Thanh âm thầm rời Lạc Dương vào cuối canh ba. Không ai thấy được chàng xuất phát từ địa điểm nào cả! Với võ công hiện tại, Hãn Thanh không hề sợ bất cứ ai. Chàng trở lại với khuôn mặt nhẵn nhụi, trắng trẻo và xinh đẹp của mình, nhưng đôi mắt chàng vẫn ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm vì thương nhớ Tiểu Thuần.

Cái Bang đã được lệnh loan báo tin này ra khắp nơi, nên hào kiệt trong vòng bán kính bốn trăm dặm đều nô nức lên đường đến Hoa Sơn quan chiến!

Hãn Thanh cố tình làm như vậy để Sách Huyết Tôn Giả không xen vào cuộc so tài giữa Hắc Hồ Bảo và Thần Ngưu Giáo. Trước mắt hàng ngàn đồng đạo, hy vọng lão ác ma Phí Hòa chẳng dám muối mặt làm càn.

Mùa thu đã về trên cao nguyên Sơn Tây. Trời khá lạnh nên Hãn Thanh có cớ để khoác áo Khinh Cừu! Chiếc nón rộng vành sụp kia che kín nửa trên khuôn mặt. Danh tiếng càng lẫy lừng thì phiền toái càng nhiều. Ai cũng muốn chào hỏi Tiểu Hầu Gia, và Hãn Thanh ngượng ngùng trước sự ngưỡng mộ, dò xét của đồng đạo. Chính vì vậy, trên đường dong ruổi, Hãn Thanh không lột nón ra khi dừng chân nói phạn điếm, tửu lâu.

Trong trận đấu với Vu Sơn Sơn Chủ, chàng xuất hiện với gương mặt đầy râu và đen đúa, nên ấn tượng kia đã in sâu vào lòng hàng ngàn đồng đạo. Giờ đây gặp lại, họ sẽ khó nhận ra chàng Nếu chỉ nhìn nửa dưới khuôn mặt!

Hãn Thanh đến trấn lớn dưới chân núi Hoa Sơn vào trưa ngày mười bốn.

Đã có mấy trăm hào khách hiện diện, họ ngồi đầy trong các tửu quán, và đông nhất là ở Tây Nhạc Tửu Viên.

Cơ ngơi này mới xây dựng và khai trương vài tháng, trông còn rất mới.

Gọi là Tửu Viên vì chung quanh là vườn hoa rộng thinh thang, đầy đủ giả sơn, suối nước, tiểu đình bát giác. Tửu khách muốn cuộc nhậu được riêng tư thì có thể chọn một tòa tiểu đình xinh xắn biệt lập. Ai cũng thích được tự do bù khú với bằng hữu, nên các tiểu đình đều bị chiếm chỗ, nên chỉ riêng quán lớn là còn trống vài bàn.

Nam Thiên Tổng Giám ngồi xuống, gọi rượu thịt, bánh bao. Từ ngày ra Đông Hải trở về đến nay. Chàng uống rượu nhiều hơn lúc trước, như để trấn áp nỗi buồn lo trong lòng. Sơn Tây là quê hương của rượu phần, đâu đâu cũng có. Hãn Thanh nhấp một hớp rượu trong suốt thơm tho, nghĩ đến dòng suối không lấy gì làm sạch sẽ của sông Phân Giang bất giác mỉm cười!

Hào khách đến đây không thiếu những tay cường sơn thảo khấu, đại đạo độc hành. Do vậy, người đội nón che nửa mặt như chàng khá nhiều. Võ lâm là chốn đầy chuyện quái lạ nên chẳng ai thắc mắc làm gì! Có những cao thủ không cần giấu mặt nhưng cũng không bỏ nón ra, để tạo cho mình một vẻ thần bí, đáng nể!

Một số là những người đi không muốn đổi tên, ngồi không đổi họ, lúc nào cũng muốn thiên hạ nhìn thấy mình. Họ học võ, mang đao kiếm luôn có mặt ở những thịnh hội, những cuộc so tài, làm khách quan chiêm. Họ chỉ rút đao khi thấy chắc ăn, và không dại gì gây oán với những đối thủ mạnh hơn.

Thỉnh thoảng họ đánh đuổi, hạ sát vài tên hạng bét để cứu người cô thế, và hài lòng với những hành động nghĩa hiệp của mình! Họ chỉ thật sự dũng cảm khi có ai chạm đến quyền lợi bản thân thôi! Đó là lớp trung niên và lão thành, từng trải cay đắng giang hồ nên rất cẩn trọng. Còn lớp thanh niên thì khác hẳn, họ khao khát thanh danh và không biết sợ!

Hãn Thanh vừa ăn uống, vừa quan sát mọi người qua vành nón thấp, không dám nghĩ đến Tiểu Thuần! Chàng biết mình chỉ thực sự yêu thương có mình nàng thôi! Còn ba người vợ chỉ có duyên và nghĩa. Chàng chợt thức ngộ rằng thân mẫu mình đã hoàn toàn có lý khi không chấp nhận thói đa thê của người Hán. Con người chỉ có một trái tim để dành trọn vẹn cho một nữ nhân thôi!

Bỗng ngoài vườn kia, có một lão say nào đó cất tiếng ngâm bài thơ Tự Khiển của Lý Bạch:

Đối thủ bất giác mị Lạc hoa danh mãn y Túy khởi bộ khê nguyệt Điểu hoàn nhân điệc hi (dịch thơ) Chén tràn không biết tối Trên áo rụng đầy hoa Tỉnh rượu theo trang suối Chim về người cũng thua!

Giọng lão khàn khàn, thê thiết, bộc lộ nỗi niềm cô quạnh.