Lụa - Chương 01 -> 15

1.

Dù người cha đã hình dung anh sẽ có một tương lai rực rỡ trong quân đội, Hervé Joncour cuối cùng lại kiếm sống bằng một nghề khác thường, cái nghề không phải xa lạ, như một sự trớ trêu kỳ cục, với các nét sắc sảo dễ thương của tướng mạo anh, để lộ ra một sự đổi giống nữ mơ hồ.

Để sống, Hervé Joncour mua và bán tằm.

Ta đang ở vào năm 1861. Flaubert viết tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc.

Hervé Joncour được ba mươi hai tuổi.

Anh mua, và anh bán.

Những con tằm.

2.

Trong thực tế, Hervé Joncour mua và bán tằm khi tằm còn là trứng bé tí xíu, màu xám hay vàng, bất động và tưởng như chết. Chỉ cần một lòng bàn tay đủ nắm hàng ngàn trứng như thế.

"Đó là điều ta gọi là nắm một tài sản trong tay".

Vào những ngày đầu tháng năm, trứng nở ra con sâu tằm ăn lá dâu để lớn lên thành tằm, ăn suốt ba mươi ngày, ăn rào rào, ăn bỗ bã; tằm chín thì thu mình kéo kén, hai tuần sau thì thân tằm bị tách ra khỏi kén vĩnh viễn để lại đằng sau một di sản tương đương, nếu tính bằng sợi, một ngàn thuộc tơ sống, nếu tính bằng tiền, một số lượng to tát quan Pháp: với điều kiện là mọi sự được tiến hành theo đúng phép tắc, bài bản, và phải ở một vùng miền nam nước Pháp, như trường hợp của Hervé Joncour.

Lavilledieu là tên cái thị trấn nơi Hervé Joncour sinh sống.

Helène, tên người vợ anh.

Họ không có con.

3.

Những trận dịch bệnh càng ngày càng tàn phá ngành chăn tằm ở châu Âu. Để tránh những sự tác hại, Hervé Joncour phải đi mua trứng tằm bên kia bờ Địa Trung Hải, tận Syrie và Ai Cập. Đó là khía cạnh phiêu lưu đặc thù của nghề anh. Hằng năm vào những ngày đầu tháng giêng, anh lên đường. Anh băng qua một ngàn sáu trăm dặm trên biển và tám trăm cây số trên bờ. Anh ra tay chọn trứng, trả giá, thu mua. Rồi anh quay lưng, băng qua tám trăm cây số đường bộ và một ngàn sáu trăm dặm đường biển, về đến cái thị trấn nhỏ Lavilledieu thường vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, thường kịp giờ dự lễ ca trong nhà thờ. Anh còn làm việc suốt hai tuần nữa cho trứng vào bao bì và đem bán.

Thời gian còn lại trong năm, anh nghỉ ngơi.

4.

- Và châu Phi nó ra sao? - người ta hỏi anh.

- Mệt mỏi.

Anh có một ngôi nhà lớn nằm ngoài thị trấn một chút và một xuồng nhỏ ở trung tâm, ngay trước mặt ngôi nhà bỏ hoang của ông Jean Berbek. Jean Berbek, một ngày đẹp trời nào đó bỗng nổi hứng quyết định từ nay về sau không mở miệng nói gì nữa. Ông giữ lời hứa. Vợ và hai đứa con gái bỏ ông ra đi. Ông chết. Nhà ông chẳng ai muốn mua và như thế bây giờ thành nhà hoang.

Mua và bán tằm, nội việc này thôi cũng mang lại cho Hervé Joncour hàng năm một số lợi tức đủ bảo đảm cho anh và vợ một cuộc sống tiện nghi thoải mái mà ở tỉnh lẻ người ta dễ cho là sang trọng, xa hoa. Anh hưởng thụ của cải mình một cách kín đáo, và anh thấy mình hoàn toàn lạnh nhạt trước cái viễn tưởng không xa thực tế lắm là anh có thể trở nên thực sự giàu có. Ngoài ra, anh là một trong những người thích làm khán giả trước chính cuộc đời của mình, mọi tham vọng sống cuộc đời mình được xem là không thích đáng, là lạc lầm.

Ta sẽ nhận ra là những người như thế lặng ngắm số mệnh mình cùng một cách như phần lớn những người khác lặng ngắm một ngày mưa.

5.

Nếu được hỏi, có lẽ trả lời rằng cuộc đời anh sẽ tiếp tục như thế mãi mãi. Tuy nhiên, vào những năm đầu thập niên sáu mươi, trận dịch bệnh tằm gai, sau khi đã làm cho số trứng tằm nuôi ở châu Âu trở thành vô dụng, lan tràn sang bên kia biển, tận châu Phi và ngay sang cả Ấn Độ, theo lời một số người. Năm 1861, Hervé Joncour trở lại quê nhà sau chuyến đi xa thường lệ, mua về một số trứng mà hai tháng sau mới biết bị nhiễm bệnh gần hết. Đối với Lavilledieu cũng như các thành phố khác đã dựa trên nền sản xuất tơ lụa mà làm giàu, năm đó tưởng như báo hiệu sự bắt đầu cho sự suy sụp, tàn cuộc. Khoa học tỏ ra bất lực trong việc tìm hiểu những nguyên nhân gây dịch bệnh. Và khắp mặt đất, tận những vùng xa xôi hẻo lánh, tưởng như bị giam hãm, đày đọa bởi cái phù phép, tai ương không lời giải thích đó.

- Không phải khắp mặt đất đâu - Baldabiou nói nhẹ nhàng - không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly rượu anizét của mình

6.

Hai mươi năm trước Baldabiou là người vừa đặt chân đến cái thị trấn này thì đi ngay tới văn phòng viên thị trưởng, vào thẳng trong chẳng thèm thông báo, và đặt lên bàn giấy tấm khăn quàng bằng lụa màu hoàng hôn rồi hỏi viên thị trưởng.

- Ông biết cái gì đây không?

- Chuyện đàn bà.

- Sai. Chuyện đàn ông: tiền.

Viên thị trưởng sai người tống cổ ông ra ngoài. Chẳng sao, ông cho dựng lên một nhà máy sợi ở phía dưới thị trấn gần bờ sông, một trại chăn tằm cạnh rừng và một nhà thờ nhỏ dành cho nữ thánh Agnès nằm ở ngã ba đường đi về Viviers. Ông thu dụng khoảng chục người thợ, gọi mua từ Ý về một cổ máy bằng gỗ trông bí hiểm, toàn bánh xe và guồng máy không à, và không nói gì thêm suốt bảy tháng. Rồi ông trở lại văn phòng viên thị trưởng, đặt ngay ngắn trên bàn giấy ba chục ngàn quan Pháp bằng những tờ giấy bạc lớn.

- Ông biết cái gì đây không?

- Tiền.

- Sai. Đây là bằng chứng ông là một thằng ngu.

Rồi ông thu xếp lại các tờ giấy bạc, bỏ vào ví và làm bộ đi ra.

Viên thị trưởng chận lại.

- Tôi phải làm cái quái gì đây?

- Không gì cả: và ông sẽ là thị trưởng một thành phố nhỏ giàu có.

Năm năm sau, Lavilledieu có bảy nhà máy sợi và trở thành một trong những trung tâm hàng đầu châu Âu trong ngành chăn tằm và dệt lụa. Không phải tất cả những nhà máy đó đều thuộc quyền sở hữu của Baldabiou đâu. Các chức sắc, thân hào và các địa chủ trong vùng đã theo chân ông trên bước đường phiêu lưu công nghiệp lạ lùng này. Ông chẳng bao giờ giấu nghề, lúc nào cũng chia xẻ những bí mật với mọi người trong bọn họ. Ông thấy vui thích làm như vậy hơn là làm ra tiền xúc không hết. Chỉ dạy. Và có những điều bí mật để kể ra. Ông ta như thế đó, cái ông Baldabiou này.

7.

Baldabiou cũng là người mà tám năm về trước đã làm thay đổi cuộc đời Hervé Joncour. Đó là vào thời kỳ những trận dịch bệnh đầu tiên phát khởi những đợt tấn công vào công cuộc chăn tằm ở châu Âu. Không tỏ ra bối rối chút nào, Baldabiou để tâm xem xét tình hình và rút ra kết luận là không thể giải quyết vấn đề này, chỉ còn cách là đi vòng tránh nó thôi. Ông có ý nhưng thiếu người, một người. Khi trông thấy Hervé Joncour đi ngang trước quán cà phê Verdun lịch sự trong một bộ quân phục thiếu úy bộ binh, đĩnh đạc với tướng bộ một quân nhân đang nghỉ phép, ông biết mình đã tìm ra người đó. Lúc đó Hervé Joncour được hai mươi bốn tuổi.Baldabiou mời anh về nhà, mở rộng đuôi mắt anh một tập bản đồ địa lý mang đầy những tên ngoại lai xa lạ và nói:

- Chúc mừng cậu. Rốt cuộc cậu cũng tìm ra một công việc đứng đắn.

Hervé Joncour ngồi nghe một hồi cái chuyện dài về tằm, về trứng, về những Kim Tự Tháp và những chuyến hải hành. Rồi anh nói:

- Tôi không thể làm được.

- Tại sao?

- Vì hai hôm nữa hết hạn nghỉ phép, tôi phải lên lại Paris.

- Nghề lính?

- Dạ phải. Cha tôi đã quyết định như thế.

- Chuyện dễ.

Ông dẫn Hervé Joncour đi thẳng tới nhà cha anh.

- Ông biết ai đây không?

- Thằng con tôi.

- Nhìn kĩ hơn đi.

Viên thị trưởng thả người dựa vào lưng ghế bành bằng da, và bắt đầu đổ mồ hôi.

- Thằng con trai tôi, Hervé, hai ngày nữa trở lên Paris, một tiền đồ sáng giá trong quân đội chúng ta đang chờ đón nó, nếu Thượng Đế và nữ thánh Agnès muốn thế.

- Đúng. Có điều Thượng Đế thì bận rộn chỗ khác và thánh Agnès không ngửi được lính tráng.

Một tháng sau Hervé Joncour lên đường đi Ai Cập. Anh đi biển trên con tàu mang tên Adel. Trong các cabin mùi nấu nướng bay từ bếp vào, có một người Anh khoe mình đã từng đánh nhau trong trận Waterloo, chiều tối ngày thứ ba của chuyến đi người ta thấy các con cá heo lóe sáng ở chân trời như những con sóng say, ở bàn cờ quay con số mười sáu cứ ra hoài.

Anh trở lại nhà hai tháng sau - ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, vừa kịp giờ dự lễ cả - với hàng ngàn trung tâm gói trong bông đặt trong hai hộp lớn bằng giỏ. Anh có hàng lô chuyện để kể.Nhưng khi chỉ có Baldabiou và anh ngồi lại với nhau, điều ông ta muốn nghe là:

- Cậu kể tớ nghe về những con cá heo.

- Cá heo?

- Cái lần mà cậu thấy chúng nó.

Baldabioiu, ông ta như thế đó.

Chẳng ai biết được tuổi thật của ông.

8.

- Không phải khắp mặt đất đâu - Baldabioiu nói nhẹ nhàng - không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly rượu anizét.

Đêm tháng tám, hơn nửa đêm tối. Vào giờ này, Verdun đã đóng quán từ lâu theo thường lệ. Ghế được lật ngửa, đặt ngay ngắn trên bàn. Cái quầy rượu, ông đã lau chùi, và những chỗ còn lại cũng vậy. Chỉ còn tắt đèn rồi đóng cửa. Nhưng Verdun đợi: ông Baldabiou đang nói chuyện.

Hervé Joncour ngồi bất động trước mặt ông, điếu thuốc tắt ngấm còn trên môi, lắng nghe. Giống như tám năm trước, anh để cái ông này ung dung viết lại số mệnh mình. Tiếng nói ông đến tai anh nhỏ nhẹ và rõ ràng, bắt nhịp theo từng ngụm rượu anizét đều đặn.Không ngưng nghỉ, tiếng nói kéo dài một lèo nhiều phút. Điều cuối cùng nói ra là: - Không có chọn lựa nào cả. Nếu ta muốn tiếp tục sống, phải đi xuống đó.

Im lặng.

Verdun chống cùi chỏ lên quầy rượu, giương mắt nhìn hai người kia.

Baldabiou tìm cách uống thêm một ngụm rượu anizét nữa, từ đáy cốc.

Hervé Joncour đặt điếu thuốc lạ lên mép bàn trước khi nói:

- Và cái xứ Nhật ấy, nó nằm ở đâu, nói cho chính xác?

Baldabiou giơ cây gậy bằng gỗ song lên trời, chỉ về hướng bên kia mái nhà thờ Saint - Auguste.

- Ngả đó, thẳng một đường.

Ông nói:

- Tận chân mây cuối trời.

9

Vào thời điểm đó, nước Nhật thực sự ở tận chân mây cuối trời.Đó là một đảo quốc hợp thành từ nhiều đảo và từ hai trăm năm nay sống hoàn toàn biệt lập với phần còn lại của loài người, từ chối giao tiếp với lục địa và nghiêm cấm tất cả người ngoại quốc vào nước mình. Bờ biển Tàu chỉ cách chừng hai trăm hải lý nhưng một sắc chỉ ban ra làm cho nó càng xa thêm bằng cách cấm cản trên toàn đảo quốc đóng thuyền quá một cột buồm. Theo một logic sáng suốt theo kiểu của nó, luật pháp kể ra không ngăn cấm những ai muốn rời khỏi nước: nhưng lên án t hình những ai tìm cách trở về. Những tay buôn Tàu, Hà Lan, Anh đã nhiều lần tìm cách phá bỏ sự cô lập phi lý này nhưng cuối cùng họ chỉ dùng được một mạng lối buôn lậu bấp bênh và đầy nguy hiểm. Họ kiếm chác chẳng được bao nhiêu tiền, chi dùng nhiều phiền toái và chỉ tạo ra được một vài huyền thoại buổi tối đem đổi vài ly trong các quán rượu ở bến tàu cho vui anh, vui em. Họ thất bại, nhưng người Mỹ đã thành công bằng cách cho vũ khí nói chuyện. Vào tháng bảy năm 1853, viên đề đốc Matthew C. Perry dẫn đầu một hạm đội hiện đại gồm các tàu chiến chạy bằng hơi nước tiến sâu vào vịnh Hoành Tân và trao cho người Nhật một tối hậu thư bày tỏ "lòng mong ước" đảo quốc mở cửa thông thương.

Người Nhật, tới lúc đó, chưa bao giờ thấy tận mắt những chiếc tàu đi biển ngược gió.

Bảy tháng sau khi Perry trở lại để nhận câu trả lời cho tối hậu thư của mình, chính quyền Mạc Phủ của đảo quốc chịu nhún mình ký vào một thỏa ước mở hai cửa khẩu ở miền bắc cho người ngoại quốc vào buôn bán và thiết lập một cách thận trọng một vài quan hệ thương mại đầu tiên.

- Vùng biển bao quanh đảo này - viên đề đốc tuyên bố trịnh trọng - bớt sâu đi nhiều lắm từ nay về sau.

10

Baldabiou biết tất cả mấy chuyện này. Nhất là ông biết được một huyền thoại lúc nào cũng trở đi trở lại trên miệng những người đã đi tới đó. Họ kể rằng cái đảo đó sản xuất ra lụa đẹp nhất thế gian. Lụa được làm từ hơn ngàn năm nay, theo những nghi thức và những bí mật đạt tới mức độ chính xác thần kỳ. Baldabiou, chính ông ấy, nghĩ rằng đây không phải là một huyền thoại mà là một sự thật không hơn không kém. Một hôm, ông nắm được trong tay một cái khăn phủ dệt bằng sợi lụa Nhật. Nó nhẹ như thể không có gì giữa những ngón tay.Như thể, khi mọi sự tưởng như trôi theo dòng nước vì nạn dịch tằm gai và trứng lây nhiễm, ông nghĩ ra ý này: - Cái đảo này có đầy tằm. Và một cái đảo mà suốt hai trăm năm chẳng có tên lái buôn Tàu hay tên bán bảo hiểm Anh vào được thì cũng chẳng bao giờ có bệnh dịch nào vào.

Ông đâu bằng lòng chỉ biết ngẫm nghĩ một mình thôi, ông đem ý này nói ra với tất cả những nhà sản xuất tơ lụa ở thị trấn Lavilledieu sau khi tập hợp họ ở quán cà phê Verdun. Tới bây giờ, không ai trong bọn họ đã nghe nói đến nước Nhật.

- Chúng ta phải đi xuyên qua cả mặt đất để tìm mua những trứng tằm theo ý Thượng Đế, ở một nơi chốn mà khi bắt gặp một tên ngoại quốc thì họ xách cổ treo lên?

- Trước kia thì thế, bây giờ hết rồi - Baldabiou nói cho chính xác.

Họ chẳng biết nghĩ tới, nghĩ lui ra sao. Một ý bắt bẻ hiện ra trong đầu một người trong bọn họ.

- Không ai trên thế gian nghĩ ra chuyện đi xuống đó tìm mua trứng, vậy phải có lý do chứ bộ không à?

Baldabiou có thể "đại ngôn" với họ, rằng trên thế gian này không có một Baldabiou thứ hai. Nhưng ông thích nói thẳng vào thực tế hơn.

- Người Nhật đành cam chịu bán lụa. Nhưng trứng tằm, không bao giờ. Họ giữ lại riêng cho họ. Và ai tìm cách đem trứng ra khỏi đảo sẽ bị khép tội.

Những nhà sản xuất tơ lụa ở Lavilledieu, ít hay nhiều, là những nhà quân tử, không bao giờ họ có ý nghĩ vi phạm một luật lệ nào ở trong nước mình. Nhưng ý tưởng là họ sẽ phạm luật của một nước ở tít mù cuối trời thì có vẻ hợp lý, hợp lẽ lắm đối với họ.

11

Ta đang ở vào năm 1861. Flaubert hoàn thành tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc.

Những người nuôi tằm ở Lavillediu hợp lại thành công ty và tập trung một số vốn to tát cần thiết cho cuộc viễn hành. Cả bọn họ thấy giao phó chuyến đi này cho Hervé Joncour là đương nhiên.Khi Baldabiou hỏi anh có chấp nhận không, anh trả lời bằng một câu hỏi:

- Và cái xứ Nhật ấy, nó nằm ở đâu, nói cho chính xác?

-Ngả đó, thẳng một đường. Chỗ tận cùng trời cuối đất.

Anh lên đường ngày 6 tháng mười. Một mình.

Ở cửa ngõ thị trấn Lavilledieu, anh ôm chặt người vợ Hélène và nói với nàng một cách giản dị.

- Em đừng lo sợ gì cả.

Đó là một người đàn bà lớn con, cử chỉ chậm rãi, nàng có mái tóc đen dài không bao giờ búi lại trên đầu. Nàng có một giọng nói tuyệt vời.

12

Hervé Joncour ra đi với tám chục ngàn quan bằng vàng và ba cái tên ông Baldabiou đã tìm ra đưa cho anh: một người Tàu, một người Hà Lan và một người Nhật. Anh qua biên giới gần thành Metz, đi xuyên qua vùng Wurtemberg và vùng Bavière, vào nước Áo, lên thành Vienne rồi thành Budapest bằng tàu lửa, tiếp tục đi đến thành Kiev. Anh cưỡi ngựa băng qua hai ngàn cây số vùng thảo nguyên Nga, vượt rặng núi Oural, tiến vào vùng Sibérie, mất hết bốn chục ngày nữa anh mới tới hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là: biển. Anh xuôi dòng sông Amour, đi dọc theo biên giới Tàu cho đến bờ Đại Dương, và khi tới đó anh nằm dài mười một ngày ở hải cảng Sabirk chờ đợi một con tàu của bọn buôn lậu Hà Lan đưa anh tới Capo Teraya nằm ở bờ biển phía tây nước Nhật. Đi bộ trên những con đường phụ, anh xuyên qua các tỉnh Thạch Xuyên, Hộ Sơn, Tân Tích, vào sâu trong tỉnh Phúc Đạo và khi đến gần thành phố Bạch Xuyên thì anh đi vòng tránh nó bằng ngả phía đông rồi chờ suốt hai ngày một người đàn ông mặc đồ đen bịt mắt anh lại và dẫn anh đi cho tới một ngôi làng nằm giữa những ngọn đồi anh ngủ lại qua đêm, và sáng hôm sau anh thương lượng mua trứng tằm với một người đàn ông không mở miệng một lời và khuôn mặt được che kín bằng một khăn phủ bằng lụa. Đen. Khi mặt trời lặn, anh giấu trứng tằm trong hành lý, quay lưng về phía nước Nhật và sửa soạn lên đường về quê nhà.

Anh vừa mới qua khỏi mấy nếp nhà cuối cùng trong làng thì một người đàn ông chạy theo chận anh lại. Hắn nói với anh điều gì đó với một giọng kích động và kiên quyết, rồi với cả sự nhã nhặn pha lẫn cứng rắn, bắt anh quay trở lại.

Hervé Joncour không nói được tiếng Nhật và không thể hiểu ông ta nói gì. Nhưng anh đoán ra là Nguyên - Mộc muốn gặp anh.

13

Một tấm vách bằng giấy bản kéo lướt qua và Hervé Joncour bước vào. Nguyên Mộc ngồi xếp bằng trên sàn nhà, ở một góc lùi xa nhất của gian phòng. Ông ta mặc một chiếc áo rộng màu sẫm và không đeo một thứ trang sức nào cả. Chỉ có một dấu hiệu thấy được ông ta có uy quyền là một người đàn bà nằm dài bên cạnh, đầu gối lên đùi ông, mắt nhắm nghiền, đôi tay che giấu dưới bộ áo rộng thùng thình màu đỏ ti xung quanh người nàng, như một ngọn lửa trên mặt chiếu màu xám tro. Nguyên Mộc chậm rãi dùng tay lùa tóc nàng: trông như ông đang vuốt ve bộ lông một con thú quý hiếm, và đang ngủ.

Hervé Joncour đi xuyên gian phòng, chờ chủ nhân ra hiệu rồi ngồi xuống đối diện ông. Cả hai người giữ im lặng, nhìn thẳng vào mặt nhau. Một người đầy tớ đi vào, lặng lẽ như không, đặt trước mặt họ hai tách trà. Rồi biến đi. Bây giờ Nguyên Mộc mới bắt đầu nói, bằng tiếng mẹ đẻ, giọng đều đến đơn điệu, pha loãng với một thứ giọng kim giả tạo một cách khó chịu. Hervé Joncour lắng nghe.Anh cứ nhìn thẳng vào mắt Nguyên Mộc và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ngay anh cũng không để ý đến, hạ ánh mắt mình xuống khuôn mặt người đàn bà.

Đó là khuôn mặt một cô gái trẻ.

Anh đưa mắt lên.

Nguyên Mộc ngưng nói, cầm một trong hai tách trà đưa lên miệng, chờ một lát rồi nói.

- Ông thử kể tôi nghe ông là ai.

Ông nói câu này bằng tiếng Pháp, hơi kéo lê những nguyên âm, với một giọng khàn khàn, thật sự của mình.

14

Trước một con người gần như bất khả xâm phạm nhất ở Nhật, chúa trùm tất cả những gì thiên hạ xoay sở đem lậu ra khỏi đảo quốc, Hervé Joncour cố kể mình là ai. Anh nói bằng tiếng mẹ đẻ, phát âm chậm rãi, không biết chính xác Nguyên Mộc có hiểu được anh không. Theo bản năng, anh bỏ qua mọi thận trọng, cứ kể lại không bịa cũng không giấu tất cả những gì có thật, giản dị thế thôi.Anh kể ra những chi tiết nhỏ nhất và những biến cố mâu chốt cùng một giọng đều đều, đơn điệu và rất ít điệu bộ, như thể tập tành theo cái nhịp không vui, lãnh đạm, thảng thốt của một người đọc danh sách những đồ vật sống sót sau cơn hỏa hoạn. Nguyên Mộc lắng nghe, không một thoáng phản ứng nào lộ ra trên khuôn mặt điềm tĩnh, lạnh lùng của mình. Mắt ông nhìn đăm đăm cặp môi của Hervé Joncour như thể đôi môi ấy là những hàng cuối cùng của một lá thư vĩnh biệt. Trong gian phòng, mọi sự đều im ắng và bất động đến nỗi cái gì xảy ra thình lình, dù từ nó chẳng có gì, cũng thành to lớn, vô hạn.

Bỗng dưng.

Vẫn nằm im không động đậy.

Cô gái trẻ này, mở mắt.

Hervé Joncour không ngừng nói nhưng theo bản năng đưa ánh mắt về phía nàng, và cái anh thấy, vẫn không ngừng nói, cái anh thấy là đôi mắt ấy không có dáng phương đông, và đôi mắt ấy với một cường độ làm bối rối nhìn thẳng vào anh: như thể đôi mắt ấy chẳng làm gì khác cả ngay từ lúc đầu, đuôi mi mắt khép, Hervé Joncour cố giữ vẻ tự nhiên, đưa mắt sang chỗ khác, ráng tiếp tục câu chuyện, không để lộ ra cái gì khác lạ trong giọng nói. Anh chỉ ngừng khi anh chợt thấy lại cái tách trà đặt trên sàn, trước mặt anh.Anh cầm đưa lên môi, uống từ từ chậm rãi. Rồi anh bắt đầu nói lại, sau khi đặt tách trà xuống chỗ cũ, trước mặt mình.

15

Nước Pháp, những chuyến hải hành, hương thơm từ những cây dâu ở thị trấn Lavilledieu, tàu lửa chẳng bằng hơi nước, giọng nói của Hélène. Hervé Joncour tiếp tục kể chuyện đời mình như thể anh chưa bao giờ làm thế trong đời mình. Cô gái trẻ vẫn nhìn anh đăm đăm, với một sự mãnh liệt khiến anh cảm thấy bó buộc phải dùng những lời lẽ có ý nghĩa, đáng ghi nhớ. Gian phòng từ bấy giờ hình như đã rơi trượt vào một trạng thái tĩnh lặng cố định khi bất thình lình, và không gây ra một tiếng động hay một âm thanh nhỏ nào, cô gái để một bàn tay trượt ra khỏi tầm áo, trượt từ từ trên chiếu, trước mặt nàng. Hervé Joncour thấy, từ khoé mắt mình, cái đốm sáng này, thấy nó vượt nhẹ tách trà của Nguyên Mộc, rơi, một cách lạ thường, tiếp tục trượt dần dần đến cái tách trà thứ hai, rồi chụp nó không chút do dự, cái tách mà anh đã uống, nhẹ nhàng cầm lên đưa về phía nàng. Nguyên Mộc không ngừng nhìn, dù một chút xíu, vào đôi môi của Hervé Joncour, mặt không đổi sắc.

Cô gái nhấc đầu lên một chút.

Lần đầu tiên ánh mắt nàng rời khỏi Hervé Joncour để sang tách trà.

Chậm rãi, nàng xoay nó dưới môi cho đến ngay chỗ anh đã đặt môi uống.

Khép mắt nửa chừng, nàng uống một ngụm.

Nàng đưa tách rồi mời.

Nhẹ nhàng đặt nó trở lại chỗ cũ.

Kéo tay vào dưới lớp áo.

Gối đầu lên đùi Nguyên Mộc.

Đôi mắt mở, đăm đăm nhìn mắt Hervé Joncour.