Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 13

13

Thái hậu Hiếu Trang trong màn trù liệu

Ngụy Hổ Thần giữa đường gặp người xưa

Khang Hy được Thái giám Trương Vạn Cường và Thị vệ Tôn Điện Thần hộ vệ về tới điện Dưỡng Tâm, đã có nàng Tô đội mưa đón tiếp. Nhớ lại cảnh tượng vừa rồi, Khang Hy hơi lo sợ, và cũng có chút bằng lòng. Trong lòng ngổn ngang bao trạng thái tình cảm: căng thẳng, hưng phấn, nóng ruột, kích động, giống như đánh đổ hũ tương ngũ vị, các vị ngọt mặn đắng chua cay đều đủ. Nàng Tô giúp vua cởi quần áo, chỉ còn mặc một chiếc áo the màu cẩm thạch, trên có đính những sợi dây đuôi ngựa bạch đàn, bỗng cảm thấy người thư thái hơn nhiều, xỏ đôi giày vải đi lại mấy bước rồi nằm vật ra trên chiếc sạp mềm, đầu gối trên hai tay, mắt long lanh nhìn say sưa khung trang trí trên nóc điện.

Nàng Tô bên cạnh nhìn thấy, nghĩ bụng: “Con người mười bốn tuổi đã biết trầm tư sâu sắc, may nhờ Ngũ tiên sinh dạy bảo đúng cách…” Nàng đứng lặng người, Khang Hy gọi cũng không nghe tiếng.

Khang Hy đang định gọi lần nữa nhưng thấy nàng Tô mặc chiếc áo ngoài cộc tay màu vàng do Thái hậu ban cho, phía dưới là chiếc quần dài màu lá sen, dưới ánh đèn hơi đỏ trong cung tỏ ra xinh đẹp tuyệt vời, thần thái thanh tuấn, tay mân mê chiếc khăn lụa hồng, đang lặng lẽ suy tư, y hệt như một cành thược dược trước gió, bất giác vua nhìn say sưa. Lần đầu tiên vua nghĩ đến, một cô gái thường ngày nghiêm trang hơi đanh đá, có lúc cũng dịu dàng dễ thương. “Ta giàu có bốn biển, quý là thiên tử, vì sao không thể ....” Nghĩ tới đây Khang Hy cảm thấy tim đập mạnh, thở dồn, rồi gọi khẽ: “Nàng Tô ...”

Nàng Tô tỉnh ra, quay người đến bên Khang Hy hỏi: “Đức Vạn tuế, ngài có lạnh không?” Nói xong với tay lấy chiếc áo kép định khoác cho vua. Khang Hy nhẹ nhàng đẩy ra, rồi nhìn nàng nồng cháy, nói: “A Tô, ngồi xuống đây.” Bất cứ người nào cũng hiểu được ý nghĩa của ánh mắt nồng nàn đó. Nàng Tô bỗng hoảng lên, tim đập thình thịch, hạ giọng nói: “Nô tài không dám...” Khang Hy kéo tay nàng lại, nhẹ nhàng vuốt ve: “Ở đây không có ai, nàng hãy ngồi xuống.”

Nàng Tô không dám giận, cũng không thể tránh, kinh hãi nhìn quanh, bọn cung nữ đã trốn đi đâu từ hồi nào, nàng chỉ đành đỏ mặt ngồi xuống bên cạnh Khang Hy.

Một hồi lâu hai người không nói gì, chỉ nghe bên ngoài tiếng mưa rào rào, tiếng lục lạc leng keng theo cơn gió. Khang Hy nắm tay nàng ngồi dậy, hỏi khẽ: “A Tô, nàng đang nghĩ gì vậy?”

Nàng Tô lúc này đã bình tĩnh lại, ngưng một lát rồi trả lời: “Nô tài đang nghĩ một bài thơ.”

“Hả?” Khang Hy ngồi thẳng lên, “ngâm cho Trẫm nghe đi!”

Nàng Tô suy nghĩ một lát, rồi khẽ khàng đọc:

Bước bước rồi bước bước, buồn thảm đường cửa trước.

Đi đi cứ đi đi, tình cảm luống bồn chồn.

Một bài thơ tình cảm, ví ta liễu trước song.

Phía bắc là lầu cao, rèm châu buông chừng nửa.

Hôm qua, gái trên lầu, dưới rèm điệu anh vũ.

Hôm nay, người ngoài ngõ, khăn lụa đẫm lệ hồng.

Ngoài ngõ và trên lầu, cách nhau chưa mười trượng.

Mây che dù gang tấc, như ngàn trùng núi xa!

Buồn thay dòng lệ cạn, từ đó biệt cuối trời...

Chia ly hạc bồn chồn, tiếng chim buồn ai nhớ?

Bàng hoàng ngày sắp tàn, quyết ý trở về thôi.

Vạt áo buồn tay xé, khóc viết thư gửi về.

Thương thay lụa một tấc, chữ nào cũng máu nhòe.

Từng chữ ngậm đắng cay, yêu thương thắt lòng người.

Nguyện làm một dây mây, leo cây chàng đến chết.

Chết không lời từ biệt, nguyện táng chung mộ chàng.

Biến thành hoa đoạn trường, được mọc ngay nhà chàng!

Khang Hy vốn say sưa yêu thương tình ái, nghe bài thơ không còn chút vấn vương. Vua buông tay ra, đứng lên nhìn ra ngoài điện, mưa gió tơi bời, bất giác nước mắt trào ra, rất lâu mới hỏi: “Bài thơ này nghe ở đâu đấy?”

Nàng Tô lúng túng một chập mới nói: “Ngũ tiên sinh nói bài thơ này thấy trong Vĩnh lạc đại điển, tên là Lý Phương Thụ thích huyết thi, không có xuất xứ cũng không chú thích triều đại. Lý Phương Thụ, người này không truyện, không ký, chỉ là tình cảm bồi hồi triền miên quanh co ngoắt ngoéo, làm cảm động lòng người.”

“Ngũ tiên sinh phong độ trong sáng, quả thật đáng khâm phục.” Khang Hy than rằng: “Nghe ngươi nói, như là dốc hết gan ruột, có thể nói thực cho Trẫm nghe hay không.” Nàng Tô chỉ đỏ mặt lặng thinh, hồi lâu mới nói: “Nô tài không có quyền tự mình chọn lựa, chỉ nghe lệnh Thánh thượng.” Khang Hy gật đầu than: “Vừa rồi Trẫm thất thố, nếu đã gần Trẫm rồi thì ngươi và Ngũ tiên sinh hối tiếc suốt đời, chẳng phải Trẫm mắc tội to lắm sao? Nhưng bài thơ này cách điệu quá thê thảm, không phải là lời phúc thọ, ngươi không nên ngâm mãi nó. Ôi …” Không hiểu sao vua thở dài một tiếng.

Nàng Tô vội quỳ xuống nói: “Vạn tuế đức cao như núi, ơn sâu như biển, chỉ vì nô tài xuất thân ở cờ...”

“Ờ, không nên nói nữa.” Nàng Tô nói chưa xong, Khang Hy đã khoát tay bảo đứng lên: “Cựu huấn của tổ tông không phải là không thay đổi được, chẳng đã nghe Sát Kim có nói: Thời đổi thế dời; biến pháp nên vậy? Ngô Ứng Hùng, con của Ngô Tam Quế không phải người Hán sao? cũng làm Phò mã! Từ nay về sau, ngươi lấy tên Uyển Nương được rồi.” Nàng Tô cảm động rơi nước mắt. “Nô tài có xương tan thịt nát cũng không báo đáp được công ơn Chúa thượng.”

“Việc đó tạm gác lại.” Khang Hy chợt nhớ ra nói: “Còn một việc cần ngươi làm.” Nàng Tô nghe nói có việc nghiêm túc liền định quỳ xuống nghe, Khang Hy cười nói: “Không cần thủ tục đó, quỳ lên quỳ xuống, làm sao nói công việc?” Nàng Tô che miệng cười, đứng lên.

Khang Hy bưng chén trà lạnh trên bàn uống hai hớp mới nói: “Nay mai sắp mở khoa thi, nghe nói Ngũ tiên sinh còn có ý muốn đi thi. Ngươi nên tìm cách khuyên can tiên sinh. Bọn Ngao Bái đang tìm tiên sinh, rơi vào bẫy chúng không phải trò đùa đâu.” Vua ngừng một lát rồi mỉm cười nói: “Phải khôn khéo một chút, không để lộ tông tích Trẫm. Điều tốt là tiên sinh còn nghe ngươi.” Nàng Tô sửa lại quần áo cười đáp: “Nô tài sẽ hết sức đi làm.”

Hai người đang nói chuyện thì Trương Vạn Cường bước vào, vái chào nói: “Thái hoàng Thái hậu đã khởi giá đến đây!” Khang Hy liếc nhìn đồng hồ chuông, đã tới đầu giờ Hợi, liền nói: “Khuya rồi, trời lại mưa, có việc gì quan trọng sao?” Trương Vạn Cường nói: “Mưa đỡ rồi, mới rồi Triệu Bỉnh Sinh cung Từ Ninh sai tiểu Thái giám tới truyền ý chỉ, nô tài không biết có việc gì.”

Khang Hy vội ra cửa nghênh đón. Đã thấy dưới mưa, hai hàng đèn gương từ từ tiến tới, nàng Tô đứng bên Khang Hy, cầm ô lụa dấu vàng, hai tay dâng lên nghênh giá.

Thái Hoàng Thái hậu run lẩy bẩy tựa vào vai hai cung nữ, bước vào điện, ngồi xuống. Khang Hy thi lễ nói: “Xin thỉnh an Hoàng Tổ mẫu! Hoàng Tổ mẫu có căn dặn gì, cứ sai gọi cháu, cần gì phải tự thân đi đến?” Thái hoàng Thái hậu cười nói: “Cả một buổi chiều không thấy Hoàng đế, trong lòng lo lắng, nghe nói Hoàng đế ban đêm còn làm việc ở điện Văn Hoa, cho dù việc quan trọng đến mấy thì sức khỏe vẫn quan trọng hơn, cơm tối ăn có được không?”

Nàng Tô quỳ xuống nói: “Trình lão phật gia, Đức Vạn tuế tối nay ăn hai bát cơm, một chiếc nem rán, ăn ngon miệng!” Thái hoàng Thái hậu cười ha ha nói: “Tốt, đứng lên! Nếu Hoàng đế ăn không ngon miệng thì ngươi sai người tới bếp nhỏ của ta bảo họ làm ngay cho.” Nàng Tô cười trả lời: “Nô tài nhớ rồi.”

Khang Hy tiếp lời Thái hoàng Thái hậu: “Vừa rồi tại điện Văn Hoa triệu kiến Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý và Tiểu Ngụy, đã tấn phong Tiểu Ngụy làm tam phẩm Thị vệ.”

Thái hoàng Thái hậu gật đầu than rằng: “Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý thì được rồi, Tiểu Ngụy cũng là người có lương tâm – nhưng theo ta, Hoàng đế còn thiếu mất một người!”

Khang Hy suy nghĩ một chút, cười giả lả: “Xin Thái hoàng Thái hậu chỉ rõ!” Thái hoàng Thái hậu nói: “Sao cháu chưa trọng dụng Cửu môn Đề đốc Ngô Lục Nhất?”

“Ngô Lục Nhất!” Khang Hy nghe nói đến tên này trong lòng bỗng thấy sáng ra. Tại kinh thành, Cửu môn Đề đốc chỉ là chức Tùng tam phẩm, thứ bậc không cao, nhưng có chức trách cai quản việc phòng vệ các cửa Đức Thắng, An Định, Chính Dương, Sùng Văn, Tuyên Vỹ, Triều Dương, Phụ Thành, Đông Trực và Tây Trực, quan trọng nhất không đâu bằng. Ngô Lục Nhất biệt hiệu “ăn mày sắt”, thường xưng “quái nhân” Kinh Hoa, các vương công đại thần đều không dám trêu vào hắn. – Con người này nếu nắm được trong tay, việc bắt Ngao Bái càng thêm phần chắc ăn. Khang Hy buột mồm nói: “Tốt!” rồi lưỡng lự nói: “Có điều, bây giờ tình thế hỗn loạn như vậy, vạn nhất hắn với Ngao Bái...”

“Không sao đâu!” Thái hoàng Thái hậu nghiêm giọng nói, “Con người này không dễ dàng lội nước đục, hắn rất coi trọng ân oán, Ngao Bái và hắn cùng làm quan một lượt, chỉ vì có gốc Mãn, danh phận cao hơn nhiều bậc, trong lòng hắn chịu phục sao? Nạp Mô lần trước phạm lỗi ban đêm bị hắn bắt được đánh hai mươi hèo mới thả, việc đó náo động cả kinh thành, sao con làm Hoàng đế mà một chút xíu đó cũng không biết?”

Nghe Thái hoàng Thái hậu quở trách, Khang Hy vội cúi đầu đáp: “Lão phật gia dạy rất phải, có điều…”

“Con cho hắn ơn huệ, hắn tự nhiên nghe con!” Không đợi Khang Hy nói hết, Thái hoàng Thái hậu cắt ngang. “Cha con đè ép bậc quan của hắn, là để lại cho con dùng đó!”

“Đúng!” Khang Hy bỗng hiểu ra, “Ngày mai sẽ hạ chiếu, cho hắn làm Binh bộ Thị lang.”

Thái hoàng Thái hậu không nhịn được cười nói: “Lại sai rồi! Không làm Cửu môn Đề đốc, con cần cái Binh bộ Thị lang đó để làm gì?”

Khang Hy bỗng cảm thấy khó xử mơ hồ nói: “Vậy làm thế nào đây?”

“Ta bày một cách bảo đảm trung dung,” Thái hoàng Thái hậu đổi giọng, đấu dịu nói: “Con ra chiếu chỉ, từ Thiên lao thả ra tên Tra gì đó?”

“Tra Y Hoàng!” nàng Tô đứng bên, tươi cười ra mặt, bỗng buột mồm: “Lão phật gia quả là chỉ đá thành vàng!”

“Đúng! Tra Y Hoàng.” Thái hoàng Thái hậu cười nói: “Họ Tra đi nói, còn linh hơn Thánh chỉ!”

“Con trai ngốc ơi, con không biết cái lý bên trong.” Thấy Khang Hy như từ trên mây rơi xuống, Thái hoàng Thái hậu vừa tức vừa buồn cười: “Mạn Thư biết, để cho Mạn Thư đi làm.”

Khang Hy gật đầu: “Được, vậy để cho nàng Tô đi làm việc này.”

“Nô tài lãnh chỉ!” Nàng Tô cười quỳ xuống khấu đầu, nói: “Ngày mai Bảo Tiểu Ngụy đi gặp Tra Y Hoàng, việc ơn nghĩa đó cho Tiểu Ngụy làm, được không?”

Thái hoàng Thái hậu cười nói: “Vậy là được rồi.” ngừng một lát rồi hỏi: “Việc học của Hoàng đế gần đây tiến bộ nhiều, Ngũ tiên sinh đó như thế nào? Ta nghe người trong cung nói gần đây Hoàng đế nói năng có đổi khác, cả số Hàn lâm cũng bái phục, đã học những bài gì? Quả là không uổng công ông ta dạy!”

“Hoàng Tổ mẫu lo lắng.” Khang Hy cười nói: “Cháu gần đây học có tiến chút ít. Ngoài Ngũ tiên sinh ra, Hùng Tứ Lý cũng giảng một ít bài, Tứ thư đã học xong rồi, theo chương trình Sách Ngạch Đồ định ra, cháu thỉnh giáo theo từng điều, Ngũ tiên sinh giảng vừa nhanh vừa có ích!” Thái hoàng Thái hậu cười nói: “Vậy là tốt, nhưng trong Tứ thư có Mạnh Tử chứ? Nghe người ta nói, con người này rất nguy hiểm, thường hay nói xấu vua, có phải vậy không?” Khang Hy nghiêm túc trả lời: “Điều Mạnh Tử nói đều là đạo lý làm vua, đều cần thiết, Ngũ tiên sinh không biết thân phận của cháu nên khi giảng không có gì e ngại, cháu nghe thường phải toát mồ hôi. Cháu chưa hề nghe vị đại thần nào dám trực diện nói những lời đại loại như “mệnh dân trọng hơn mệnh Vua”.”

Thái hoàng Thái hậu cười nói: “Ông con, cha con đều bảo người ta đọc Tam quốc, sách đó tuy hay, nhưng xem ra như có ý xúi giục người ta không yên phận, bây giờ cũng nên học những học vấn nghiêm túc.”

“Đó chính là đạo lý “Có thể được ngay thiên hạ, mà không thể trị ngay thiên hạ.”.” Khang Hy cười nói: “Lão phật gia cũng là thánh nhân!” Thái hoàng Thái hậu cười rồi dặn dò mọi chuyện một hồi lâu, mới khởi giá về cung Từ Ninh.

Đối với chuyện Ngô Lục Nhất, Khang Hy không yên tâm lắm, cười hỏi nàng Tô: “Vừa rồi Thái hoàng Thái hậu nói chuyện Ngô Lục Nhất, Tra Y Hoàng, rốt cuộc là chuyện gì vậy?”

Nàng Tô cười nói: “Họ Tra là ân nhân lớn của Ngô Lục Nhất, mọi việc đều nghe hắn điều khiển!” Thấy Khang Hy bán tín bán nghi, nàng Tô từ từ giảng giải: “Tên Tra Y Hoàng bị giam đó là người Hải Ninh Phúc Kiến, cũng xuất thân con nhà gia thế, thời Đức Thuận Trị có làm Hiếu liêm, thời trẻ cũng là người có chí khí lớn. Năm đó, Long Chung, Hải Ninh có tuyết lớn, ông ta dẫn theo bốn năm tên tiểu đồng mang theo thịt rượu đi du lịch, tới một nơi xem tuyết thưởng mai. Đang lúc sai người đi mời bạn, thấy trước điện có một cái chuông cổ to bằng hai vò đá, bên cạnh có một hàng chữ dưới chân bị một lớp tuyết mỏng che phủ, tuyết trên chuông dường như có dấu lau quét...”

“Tuyết lớn thế này, ai đến trước chuông làm gì?” Khang Hy hỏi.

“Đúng vậy, Tra Y Hoàng cũng kinh ngạc, bèn đến trước khom người nhìn phía dưới chuông, thấy bên trong có một cái giỏ tre, thấy kỳ lạ bèn sai mấy tùy tùng hè nhau nhấc lên.”

“Trong đựng cái gì?”

“Không ngờ nhấc cả buổi, cái chuông như mọc rễ, không lay chuyển chút nào. Tra Hiếu liêm càng thấy kỳ, ông ta cũng không mời bạn bè đến, mà dứt khoát ngồi ngay dưới hiên uống rượu ngắm tuyết, đợi người đến lấy giỏ.” Nàng Tô bình tĩnh nói, dáng như tự mình chứng kiến cảnh đó. Khang Hy cũng nghe say sưa. “...Chừng sau nửa canh giờ, một người ăn mày lội tuyết đi tới, chỉ khoảng trên dưới hai mươi tuổi, đem đặt bên cạnh chuông một đống lương khô, một tay đỡ chuông lên, còn tay kia bốc lương khô bỏ vào trong giỏ, đâu năm sáu lần mới bỏ xong, sau đó đậy chuông lại rồi bỏ đi.”

“Một lúc sau thì trở lại, ngồi trên đám tuyết trước cái chuông coi như không thấy ai, nhấc chuông lên, nhặt một miếng lương khô mà gặm, ăn xong lại nhắc lại lấy, dễ như mở rương vậy.”

“Quả thật là người kỳ việc lạ.” Khang Hy kêu lên kinh ngạc.

“Quả vậy!” Nàng Tô nói: “Tra Hiếu liêm bỗng thấy kinh sợ, bèn đi tới chỗ người đó, đứng sau lưng ném ra một câu “Nam nhi hảo hán như vậy, vì sao phải đi ăn mày?””

“Người ăn mày quay đầu nhìn Tra Hiếu liêm, vừa ăn vừa nói: “Nam nhi hảo hán không làm anh hùng, thà đi ăn mày!””

“Nói hay lắm!” Khang Hy than: “Rồi sau thế nào?”

“Tra Hiếu liêm bỗng động lòng, thở dài nói: “Nghe người ta nói, ở thành Hải Ninh có người ăn mày, tay không cầm gậy, miệng như ngậm tăm, quần áo rách bươm, ăn ba bữa không no nhưng không có vẻ đói khổ, người ta gọi là “Ăn mày sắt”, có phải là ông không?””

Lúc này Khang Hy bỗng hiểu ra, nói: “Té ra do vậy mà Ngô Lục Nhất có tên hiệu “Ăn mày sắt”.

“Người đó nói: “Phải, tôi chính là Ăn mày sắt! Hiếu liêm lại hỏi: “Uống được rượu không?””

““Ăn mày sắt” cười ha hả nói: “Không uống được rượu, làm sao xem là đại trượng phu?””

“Thế là Hiếu liêm mời ông ta vào hiên nhà, hai người ngồi đối mặt uống rượu. Hiếu liêm một ly, “Ăn mày sắt” một vò, uống tới ba mươi hiệp, “Ăn mày sắt” mặt không biến sắc, Tra Hiếu liêm đã say ngất ngưỡng, nói: “Tửu lượng của ông quả là như biển!” Rồi trở về, say lảo đảo.”

“Tên họ Tra này cũng thật hào phóng!” Khang Hy khen, có ý khâm phục.

“Tối đó tỉnh rượu, Tra Hiếu liêm nghĩ rằng, trời lạnh giá như thế này, sao không mời “Ăn mày sắt” về nhà tránh tuyết? bèn sai người mang áo lông và áo dài của mình đến miếu Quan âm, “Ăn mày sắt” nhận đồ nhưng không cảm ơn.”

“Buổi chiều hôm sau, Tra Hiếu liêm đi thăm “Ăn mày sắt”, thấy ông vẫn chân trần, lòi tay áo bèn kinh ngạc hỏi: “Áo lông và áo dài ta sai đem tới cho ông đâu?””

““Đổi rượu uống rồi.” “Ăn mày sắt” cười nhạt: “Đi ăn xin thì đồ đạc đó có ích dụng gì?””

“Hiếu liêm cảm thấy không thể đối đãi bằng lứa với người này, bèn hỏi kỹ gia cảnh, mới biết “Ăn mày sắt” là con nhà gia thế, cha Ngô Đạo Đại là Quan sát thời nhà Minh, sau khi cha chết đạo nhà suy sụp biến thành ăn mày, đi khắp thiên hạ. Trong khi chuyện trò, Ngô Lục Nhất bàn đến Giang Nam địa thế núi non, sông ngòi hiểm trở, dùng binh bố trận, ý nào cũng hợp nhau...”

“Tra Hiếu liêm hoảng kinh nói: “Ngô hiền đệ, ta đánh giá sai em rồi! Em là anh tài trong nước, lại coi là bạn nhậu, quả là bất kính biết bao!””

Khang Hy nghe đến đó, cảm thấy máu nóng chạy khắp người, phấn chấn không biết nói sao cho phải.

“Sau đó, Tra Hiếu liêm mời Ngô Lục Nhất về nhà, hàng ngày đối đãi như khách quý, nói: “Hiền đệ là giao long, tạm thời ở trong bể nhỏ nhà tôi một thời gian. Ngày nay thiên hạ đại loạn, không phải buồn anh hùng không có đất dụng võ.””

“Tra Hiếu liêm cũng xứng là một vị anh hùng. Không có con mắt anh hùng sắc sảo, làm sao nhận biết được anh tài chân chính!” Khang Hy nói: “Về sau như thế nào?”

“Quân Đại Thanh ta vào Quan Trung, Hồng Thừa Trù đánh tới Triết Giang, Tra Hiếu liêm trù tính giúp cho “Ăn mày sắt”, để ông ta đầu quân vào Hồng Thừa Trù. Ông từ Phúc Kiến đánh đến Quảng Châu, huyết chiến dư trăm trận, công lao không kém hơn Ngao Bái. Trước kia nghe nói đã có làm Tuần phủ, Tri phủ, sau mới tấn phong làm Cửu môn Đề đốc.”

Nghe đến đây, Khang Hy thở ra nhẹ nhõm và hỏi: “Thế họ Tra vì sao phải giam vào ngục?”

“Ngô Lục Nhất từ Tuần Châu sai người tới Hải Ninh tìm Tra Hiếu liêm mới hay nhà Tra Y Hoàng bị nạn binh đao, bệnh tật quật ngã, bán chữ sinh sống. Ngô Lục Nhất cho ngay ba ngàn lượng vàng, giúp Tra Hiếu liêm dựng lại nghiệp nhà. Hiếu liêm du ngoạn trong vườn hoa của “Ăn mày sắt”, tình cờ khen một câu về hòn non bộ trong vườn. Ngày hôm sau, “Ăn mày sắt” liền sai người dỡ ra, dùng tàu chiến đưa thẳng về Hải Ninh. Đức Vạn tuế nghĩ xem tình nghĩa đến mức nào!”

“Ông ta chỉ là Tri phủ sao có nhiều tiền thế?” Khang Hy kinh ngạc hỏi.

Nàng Tô cười đáp: “Hoàng thượng cái gì cũng hỏi đến cùng – lông cừu sinh ra trên thân cừu, những năm chiến tranh, vị tướng cầm quân nào không phải là núi vàng biển bạc!”

Khang Hy gật đầu: “Cũng là số mạng, có một người tên Trang Đình Long, không có việc gì làm, ngồi viết ra quyển sách nói về triều Minh trước gọi là Sơ lược lịch sử Chu tướng quốc. Người viết tựa nghĩ đến Tra Hiếu liêm danh vọng lớn, không nói không rằng ghi tên ông ta vào sách. Khi Đức Thuận Trị tra cứu quyển sách đó, liền bắt ông ta.”

“Hả?”

“Ngô Lục Nhất cuống lên, mời một vị tiên sinh họ Hà, là một cây bút lớn viết sớ tấu thay ông ta, một tháng liên tiếp dâng bảy tờ sớ, nhất quyết dùng chức quan của mình đổi lấy mạng sống cho Tra Hiếu liêm. Nể mặt ông lão Hồng và công danh tình nghĩa họ Ngô, Tra Y Hoàng mới thoát chết.”

Nói đến đây, nàng Tô cười. “Đức Hoàng thượng ngài tha cho ông ta khỏi tội tù, Ngô Lục Nhất chẳng lẽ không cảm kích báo ơn ngài sao?”

Nghe xong câu chuyện này. Khang Hy ngồi yên lặng rất lâu.

Ngụy Đông Đình bàn xong việc ra khỏi phủ Sách Ngạch Đồ đã là nửa đêm, lúc đó gió mưa đã tạnh, ánh trăng từ trong đám mây tỏa ra trong trẻo, ven theo ngõ phố không có tiếng người, khiến người ta có cảm giác thần bí khó tả.

Kết quả bàn bạc của ba người là tổ chức ra Thiếu niên Bố kho, việc bắt giữ Ngao Bái đương nhiên phải do anh ra tay. Chàng nghĩ mình phải dốc hết lòng trung thành với Thánh thượng, cảm thấy toàn thân hăng lên; nghĩ tới thế lực Ngao Bái giăng đầy khắp kinh thành, lòng lại trầm lắng, rốt cuộc phải chọn những người như thế nào? Trong bụng đang điểm lại từng tên những người quen thuộc đánh giá phẩm hạnh và tài năng họ, chỗ mạnh, chỗ yếu, nêu ra hàng loạt người tốt, có Tôn Điện Thần, Trương Vạn Cường, Triệu Phùng Xuân, Lang Thẩm, Minh Châu... không ngờ thả cương thẳng tới ngõ Vĩ Tử phía đông bắc cửa Tây Trực. Anh bỗng nghĩ chỗ này cách quán Duyệt Bằng không xa, chi bằng đi gặp Hà Quế Trụ, mang ông ta đi ngay trong đêm. Nếu ông ta không chịu, thì cũng đành giết chết phi tang cho xong chuyện.

Chàng không dám nghĩ nhiều, quay đầu ngựa, quất một roi phóng thẳng về phía quán Duyệt Bằng. Vừa qua khỏi một hố lau to bên đường, đã thấy một đội tuần đêm xách đèn lồng từ phía trước đi lại, từ xa đã hô to: “Ai cưỡi ngựa phía trước? Lại đây!” Chưa kịp nói hết, đám người đó đã phóng ngựa tới nơi.

Thấy Ngụy Đông Đình mặc sắc phục Thị vệ bậc ba, đám người kia cũng không dám thất lễ. Tên cầm đầu bước lên vái chào rồi nói rằng: “Tiêu Hạ vấn an đại nhân, dám hỏi đại nhân đi đâu đêm khuya thế này?”

Ngụy Đông Đình đang định trả lời, nhưng nảy ra một ý, liền nói: “Ta là thị vệ cung đình, mới bàn chuyện ở phủ Ngao Trung đường xong tới đây, thích đi chơi một chút.” Tên tuần đêm cười nói: “Xin lỗi đại nhân, bọn em đang làm nhiệm vụ, xin đại nhân cho xem giấy phép, mới cho đi được.” Ngụy Đông Đình nghe giọng nói người này có hơi quen quen, bỗng cảnh giác đáp lại không cần suy nghĩ: “Ta đến phủ Ngao Trung đường có việc, bọn bay dám vô lễ như vậy sao?”

Người đó cười nhạt nói: “Kinh thành này là của Thiên tử, ngay cả Ngao Trung đường tới đây cũng phải trình giấy tờ mới cho đi được!”

Ngụy Đông Đình đang định nổi cáu, nhìn qua ánh sáng đèn thấy người đứng trước mặt là Mục Tử Húc trước kia từng kết nghĩa anh em với mình ở cờ tả Khách Lạt Tẩm, liền quay người xuống ngựa cười ha hả nói: “Anh bạn, anh muốn bắt ta chăng! chắc là mời ta ăn thịt chó hả?”

Mục Tử Húc kinh ngạc đi gần lại, liếc mắt nhìn thấy Ngụy Đông Đình, liền ném roi ngựa, quay người chào: “Té ra là đại ca! Anh làm chúng tôi suy nghĩ khổ sở.” Ngụy Đông Đình vội bước tới đỡ đậy, hỏi: ““Lừa bướng” và Tư Hách đâu?” Trong đám đông, hai người nghe nói đến tên mình đã vọt lên nắm tay, nhảy lên reo cười.

Nguyên khi ở Khách Lạt Tẩm, tay Mục Tử Húc này vốn là một tên trộm ngựa nổi tiếng, hắn dẫn mấy tên vô lại trộm thịt mất con chó quý của Ngụy Đông Đình, Ngụy Đông Đình tìm đến tận nhà, mấy tên kẻ cướp đang chén thịt chó, nhưng đều không biết anh ta, nên mời ngồi cùng ăn. Ngụy Đông Đình thích tính hào hiệp của bọn họ liền xuất tiền mua một vò rượu to, uống suốt đêm, sau kết nghĩa thành anh em. Vì Ngụy Đông Đình thân phận cao quý không ai muốn làm trưởng anh chàng nên cùng tôn chàng làm đại ca.

Xa cách nhiều năm, Ngụy Đông Đình mới nhìn thấy họ trong lòng làm sao không vui, mừng vui một chặp, Ngụy Đông Đình mới hỏi: “Mấy người sao cũng tới kinh sư?”

Tư Hách cười nói: “Đại ca biết đó, anh em chúng tôi không nhà, chỗ nào có cơm ăn thì tìm đến đó. Hồi đó đại ca đến Nhiệt Hà chưa bao lâu thì Khách Lạt Tẩm bị khoanh đất, bà con bá tánh chạy tản lạc hết trơn, bọn em ở đó mà chết đói à? Vội chạy sang Nhiệt Hà để dựa dẫm đại ca, nghe nói đại ca đã đến kinh sư. Bọn em bàn nhau, chạy tới kinh sư...”

“Khổ cho mấy người đường sá xa xôi.” Ngụy Đông Đình rất cảm động “E có hơn ba ngàn dặm nhỉ?”

“Lừa bướng” cười nói: “Bọn em chuyên buôn bán thứ không cần vốn thì sợ gì đường xa!” Ngụy Đông Đình nghe bỗng bật cười ha hả.

Mục Tử Húc cười hỏi: “Đại ca trước không phải làm ở phủ Nội Vụ? Bây giờ sao ngon lành, vừa là Thị vệ của Hoàng thượng, lại ở trong phủ Ngao Trung đường?” Ngụy Đông Đình cười hì hì: “Sự thực là làm cho Hoàng thượng, còn nói Ngao Trung đường là muốn hù tụi bay cái chơi!”

“Chà, suýt nữa là hiểu lầm rồi!” “Lừa bướng” nói: “Ai hay đại ca càng nói ở phủ Ngao Bái tới, càng gây khó cho đại ca! Đừng thấy bọn em xấu xí, đã nắm quyền trong tay thì phải ra tay chứ!”

Ngụy Đông Đình chợt nghĩ ra: “Đây chính là mấy tay cừ khôi, đều là dân vong mạng không nhà, không nghề nghiệp, đang lo không tìm ra người!” Rồi cười nói: “Ở đây có mấy anh em? Đại ca xin mời chiêu đãi tất!”

Mục Tử Húc cười nói: “Tất cả mười hai người. Các anh em, tới đây ra mắt Ngụy đại nhân!” Chín người lính thấy đầu lĩnh của mình kết nghĩa anh em, lại là một nhân vật như vậy, liền nhất tề bước tới vái chào: “Thế là phải tốn tiền của Ngụy đại nhân rồi!” Ngụy Đông Đình cười nói: “Đâu có phải tốn tiền của ta, ông chủ quán Duyệt Bằng là bạn ta, chúng ta nhân trời còn tối tới đó quấy anh ta một chầu nhé!”

Một đoàn người vừa đi vào hẻm, đã thấy phía xa bảy tám người xách đèn lồng, khênh một người. Mấy người đó thấy có người tới, ngần ngừ một chặp rồi quanh vào một ngõ hẻm, đi về phía đông. Ngụy Đông Đình đã nghi trong bụng, hết sức chú ý, vội gọi Mục Tử Húc ra nói nhỏ câu gì. Mục Tử Húc quay đầu quát to một tiếng: “Ai phía trước? Đứng lại!” Số người kia hoảng loạn càng chạy mau hơn.

Mục Tử Húc phân công: “Em Ba, em Tư, hai em cưỡi ngựa vòng qua phía bắc chặn bên đó, chúng ta bên này, hai bên ép lại, xem bọn chó chúng nó chạy đi đằng nào!” Ngụy Đông Đình nói: “Ta cũng đi chặn.” Rồi cùng “Lừa bướng”, Tư Hách lên ngựa phóng đi.

Bọn người nghe tiếng vó ngựa dồn gấp, vội vàng bỏ chạy. Vừa mới vào tới ngõ hẻm, ba người bọn Ngụy Đông Đình đã phóng tới, quay ngang ngựa chặn đường. “Lừa bướng” không cần phân giải, chiếc roi ngựa phóng tới trước vút một tiếng, mồm quát: “Súc sinh! Điếc à!” Ngụy Đông Đình liếc mắt nhìn, bỗng kêu thầm một tiếng: “Hỏng rồi!” Người bị dây thừng trói chặt cứng, mồm nhét đầy giẻ đó chính là Hà Quế Trụ.

Cầm đầu là một tên cao to mặc quần áo đen, bím quấn quanh cổ, lưng dắt dao. Những người khác đều mặc áo chẽn màu nước biển. Thấy tên đi đầu bị roi quất cho máu me đầy mặt, tên to đen bỗng tức giận. Đang muốn làm dữ, thì nghe Ngụy Đông Đình ngồi trên ngựa lạnh lùng hỏi: “Bọn bay là ai? Trói người ta đưa đi đâu?”

Tên to đen thấy Ngụy Đông Đình mặc sắc phục thị vệ, lại thấy Mục Tử Húc phía sau chen tới, thấy không thể xử cứng, bèn bước tới vái chào: “Tại hạ Lưu Kim Tiêu, hiện phục dịch ở phủ Ban Bố Nhĩ Thiện. Người này tên Tiểu Tử Kỳ, là nô tài ở phủ Ban, vì ăn cắp đồ bỏ trốn, ông chủ sai chúng tôi bắt tra hỏi, không ngờ gặp...”

Ngụy Đông Đình thấy hắn nói lung tung, biết cũng là tay giang hồ lão luyện, cười nhạt nói: “Có giấy phép không?” Tên cao to vội nói: “Vì quá gấp nên không mang theo. Nếu Đại nhân không tin, cho tùy tùng đến chỗ Ban đại nhân hỏi thì rõ. Nếu không, tại hạ sai người về lấy cũng được!”

“Không có giấy phép phủ Thuận thiên là vi phạm quy chế ban đêm!” Ngụy Đông Đình quát to: “Anh em, bắt lấy hắn!”

Mục Tử Húc đáp “Dạ”, rồi phất tay một cái, mười mấy người cầm dao ùa xông lên định ra tay. Trong lúc kinh hoàng, Lưu Kim Tiêu trở nên cứng rắn, chắp hai tay nói: “Tiêu hạ mạnh dạn xin thỉnh giáo đài phủ quý tính. Người này quả thực là gia nô phủ tôi...” Ngụy Đông Đình quát một tiếng cắt đứt: “Chúng ta phụng dụ hành sự, ai đi nghe bọn bay nói bậy nói bạ! Ngày mai mi tới Nha môn Tuần phòng phân giải!”

Lưu Kim Tiêu rút dao ra, nói giọng hung hăng: “Vậy thì đừng trách tiểu nhân vô lễ”, đang nói, Mục Tử Húc đã vòng tới sau lưng. Anh ta xuất thân là giặc cướp, bước chân cực nhẹ, Lưu Kim Tiêu không biết tí gì... bỗng cảm thấy vai tê như sét đánh, đã bị Mục Tử Húc tước mất vũ khí, Mục Tử Húc một tay đỡ gạt cánh tay hắn, còn tay kia giơ đoản kiếm kề trước cổ hắn nói: “Còn dám vô lễ à?” Tư Hách, “Lừa bướng” cùng bước lên trước, đẩy người khiêng Hà Quế Trụ ra, kéo ông chủ quán dậy, không biết Ngụy Đông Đình cần người này làm gì, nên không mở trói.

Lưu Kim Tiêu bị mất vũ khí, mồm vẫn cứng cỏi như không, gồng cổ lên nói: “Mi có giỏi thì cứ giết ta đi!”

“Lừa bướng” tức khí, quát to lên: “Ta đây đã giết biết bao nhiêu người rồi, có thêm một cái đầu lưu manh của mi thì can hệ gì...” bước lên mấy bước nắm lấy ngực Lưu Kim Tiêu cười nói: “Trời đang nóng, cho mi giải nhiệt một chút!” Anh lấy đoản kiếm của Mục Tử Húc định đâm vào ngực hắn.

“Người anh em!” Ngụy Đông Đình đã cướp lại được Hà Quế Trụ, không muốn làm sự việc thêm nghiêm trọng, liền chặn lại nói: “Đừng làm bẩn tay mình!”

Lưu Kim Tiêu thấy anh không dám giết người, nên đâm ngang ngạnh nói liều: “Mi là thần miếu nào mà lớn hơn Ban đại nhân?”

“Lừa bướng” giận quá, dắt dao vào thắt lưng, hai ngón tay như dùi nhọn đâm thẳng vào mắt phải Lưu Kim Tiêu, lôi ra tròng mắt tươi nguyên. “Không cho mi biết chút lợi hại thì mi chẳng hiểu được Mã Tam gia có ba con mắt!” Tên Lưu Kim Tiêu gào lên như lợn chọc tiết, vùng thoát ra, nhưng bị Mục Tử Húc phía sau khóa chặt, không nhúc nhích được! Những người đi theo thấy anh chàng lùn mắt mũi trông ngay thẳng mà tính khí tàn nhẫn như vậy, ai nấy đều lắc đầu run như cầy sấy. “Lừa bướng” ném tròng mắt cho Tư Hách, nói: “Nhận lấy, tốt nhất là dầm rượu!” Rồi lại hỏi: “Lưu Kim Tiêu, con mắt này cũng cho anh mày chứ?” Lưu Kim Tiêu đau đớn toàn thân phát run lên, không nói được tiếng nào, chỉ nhắm con mắt ràn rụa thịt máu tươi, lắc đầu lia lịa.

Ngụy Đông Đình “hừm” một tiếng, nói: “Hôm nay dạy cho mi một chút xíu cho mi hiểu biết, thành Bắc Kinh còn chưa đến phiên họ Ban!” hất đầu một cái, mang theo Hà Quế Trụ hùng hổ kéo đi.