Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 20

20

Đồng lòng, Bạch Vân Quan nối Xuân Thu

Khác chi, ở lầu trống họ Hồ đoán chữ

Nàng Tô đi ra cửa miếu, mới thấy nhẹ nhõm trong lòng. Cái cửa này coi như đã qua được, nhưng từ nay về sau làm sao đối phó với vị ngô nghê này? Thấy Ngũ Thứ Hữu yên lặng bước đi, như đang nghĩ điều gì, liền hỏi: “Đói chưa? Chúng ta chưa cần lên kiệu về phủ vội, hãy tìm một cái quán nào gần đây nghỉ chân lót dạ một chút rồi hãy về. Tôi đứng mỏi cả lưng tê cả chân rồi!”

“Cũng được,” Ngũ Thứ Hữu nói, “nhưng chuyện hôm nay lạ lắm, người mà Long Nhi, Tiểu Ngụy hẹn gặp hôm nay sao mà kiểu cách, giống như nô tài của Long Nhi, các người sao không chịu hiểu nhau?” Nàng Tô che miệng cười nói: “Ông ta là khách văn ở trong phủ họ Ngao, tập được tướng nô tài. Nghe nói ban đầu quan hệ với Tiểu Ngụy khá tốt, lại là thân thích. Bữa nay tình cờ gặp nhau, lòng người khó lường, đương nhiên tốt hơn hết là coi như không quen biết.” Ngũ Thứ Hữu có tâm tính học trò, không còn chỗ nào nghi ngờ, nên cười nói: “Vậy cũng quá cẩn thận rồi.”

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, quanh qua một đống gạch nát, thấy phía trước có một bức tường đất, dây leo bám đầy tường, bên tường có cây cổ thụ. Đây tuy là một nhà nấu rượu trong thôn, nhưng phía sau thấy quang cảnh làng thôn cũng hấp dẫn, Ngũ Thứ Hữu gật đầu cười nói: “Nơi này hay lắm, là một nơi đọc sách lý tưởng.”

“Mời hai vị vào trong dùng cơm, có mì xào thịt dê, các thức điểm tâm...”

Ngũ Thứ Hữu mải nói chuyện, không chú ý người chủ quán, nhưng nghe tiếng nói thấy quen lắm, liền ngước đầu nhìn, té ra là Hà Quế Trụ. Lâu ngày không gặp, anh ta béo ra nhiều, liền kinh ngạc hỏi: “Chú Trụ, sao chú lại ở đây?”

“Ôi, là cậu hai của tôi!” Bây giờ Hà Quế Trụ mới thấy Ngũ Thứ Hữu đi cùng với một cô gái lạ hoắc, liền cười hùa nói: “Tiểu nhân vụng về lắm rồi, cậu hai lại mặc thứ quần áo này, không dám nhận người quen rồi, bây giờ tiểu nhân xin thỉnh an ngài!”

Nàng Tô đã nghe Ngụy Đông Đình nói về người này, nên nhìn chăm chú, lại nhìn lên bức trướng có hai chữ lớn “Sơn Cô”, rồi bước theo Ngũ Thứ Hữu vào quán. Hà Quế Trụ bước theo sau, miệng không dứt lời: “... Sau khi ngài đi không lâu, quán Duyệt Bằng không mở được nữa. Nhờ phước cậu hai, Ngụy gia tìm cho tiểu nhân một chỗ đứng chân ở đây. May nhờ có cậu, không có bạn bè của cậu hai bản lĩnh cao thì nay tiểu nhân này còn đâu nữa...” Nói chưa hết câu, thấy bên trong có một vị khách nhìn ra, nên ngưng lại. Anh đưa hai người vào phía trong ngồi tử tế, liền đi sắp đặt cơm nước.

Khi bước vào quán, nàng Tô nhìn thẳng vị khách đó, cảm thấy như đã gặp ở đâu, nhưng không nhớ ra, đành thôi. Đến khi vào phòng trong, mới chợt nghĩ ra, nói: “Đâu giống như tên thích khách xấu thậm tệ mà người ta đồn đại, hắn tới đây làm gì?” Bỗng trong lòng thấy hồi hộp, lại nghĩ đến đám người cùng Khang Hy đi xa rồi, chắc không có việc gì lớn, nên dần dần bình tĩnh lại.

Ngũ Thứ Hữu thì không chú ý sắc mặt nàng Tô, hứng thú tràn trề, thưởng thức từng chữ từng câu những câu thơ du khách viết lên tường để lại, phần nhiều là những lời ca ngợi Bạch Vân Quan nói lên điều nhân quả báo ứng, cảm thấy vô vị, nhưng có một hàng chữ nhỏ làm anh chú ý. Đọc đi đọc lại, cúi đầu ngẫm nghĩ, cười thầm trong bụng. Nàng Tô tiến sát lên xem, trên tường đề:

Tháng ba Nhâm Dần, hầu gặp phu nhân ở Cao Hiên

Bất giác mặt cảm thấy hơi nóng, trách rằng: “Văn nhân rõ chán, viết lên những lời bẩn thỉu.” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Đây chỉ coi là những lời khinh bạc, Nàng đã đọc thuộc làu Tam quốc mà không biết những lời này thuộc người có tư cách. Đợi tôi đọc tiếp mấy câu.”

Đang nói thì Hà Quế Trụ bưng một mâm thức ăn lên, một cái lò lửa nước sôi ùng ục, một đĩa mì xào, còn một đĩa gà ninh nhừ kiểu Đức Châu. Anh nhắc cái đùi gà lên, giũ một cái rất điệu nghệ, thịt liền rơi xuống rào rào. Ngũ Thứ Hữu và nàng Tô xem chữ, liền cười hỏi: “Đây là nói việc chủ quán trước kia, nói trong tháng ba có một người tôn quý đã tới quán này.”

“Là người trong cờ?” nàng Tô hỏi.

“Là người Hán.” Hà Quế Trụ cười nói: “Còn đưa theo một cô gái, cô gái này còn đẹp hơn Trần Viên Viên nữa cơ?” Nói xong nhìn Ngũ Thứ Hữu rồi vén rèm đi ra. Nhờ cái rèm mở loáng ra, nàng Tô nhìn thấy tên thích khách đứng lên đi ra ngoài.

Ngũ Thứ Hữu thấy nàng sững sờ liền hỏi: “Uyển Nương, nàng đang nghĩ gì?” Nàng Tô hơi giật mình, cười nói: “Trần Viên Viên! Quý nhân này không phải là Ngô Tam Quế?” Ngũ Thứ Hữu cũng giật mình, nhìn kỹ nét bút, đập bàn nói: “Không phải ông ta thì còn ai, tôi có nhìn thấy thư từ ông viết cho tiên phụ năm xưa, rất giống! Nhờ nàng thông minh, trong chốc lát đã nghĩ ra được.”

“Cậu hai!” Hà Quế Trụ hào hứng bưng vào một cái nghiên, cầm một cây bút bước vào nói: “Mời dùng mực.” Ngũ Thứ Hữu nói: “Được.” Vừa cầm bút chấm mực, vừa cười nói với Ngũ Thứ Hữu: “Chỉ sợ làm bẩn bức tường của anh.” Hà Quế Trụ cười híp mắt, nói: “Cậu hai nói gì vậy, nét bút của cậu quý hơn gì hết! Đây là Bắc Kinh, người biết không nhiều, chứ qua sông Dương Tử, sợ có tiền cũng không có mà mua!”

Ngũ Thứ Hữu nhìn nàng Tô nói: “Người này dùng bút pháp Xuân Thu, tôi cũng viết tiếp bằng bút pháp Xuân Thu.” Rồi viết tiếp sau hàng chữ nhỏ:

Hè hạn lâu, thu sương sớm, đông nhiều mưa tuyết. Hầu Hoăng phu nhân băng.

Viết xong ngồi xuống nói: “Không lượng tài, không đo đức, há chẳng phải tự tìm đường chết sao?”

Nàng Tô cười nói: “Tiếp như thế này là đầy đủ rồi. Mấy người kia đi hướng nào rồi?”

“Tôi nói theo lời ông chủ trước.” Hà Quế Trụ rất ngạc nhiên vì sao cô gái lại thích thú với chuyện này, liền trả lời thận trọng: “Việc sau đó tôi không hỏi.”

“Anh đừng giấu chúng tôi làm gì?” Nàng Tô cười nhạt nói: “Vị này là ông chủ nhỏ của ông hồi trước, Tiểu Ngụy – mà anh gọi là Ngụy gia, lại là anh họ tôi, còn gì không đáng tin nữa?”

Hà Quế Trụ từ nhỏ bị đánh phạt quen rồi, liền cười giả lả: “Đừng nói cô là thân thích của Ngụy gia, chỉ cậu hai Ngũ ngồi đây, Trụ tôi cũng không dám giấu giếm một mảy may nào, quả thực là không biết.” Ngũ Thứ Hữu cũng cảm thấy buồn cười: “Uyển Nương, chúng ta ăn xong rồi thì đi thôi, Ngô Tam Quế nào đó can hệ gì đến ta?” Nàng Tô mới im, và thấy mình cũng nói sai lai lịch nên cười nói: “Tôi cũng nói vui thôi, anh làm việc của anh đi vậy.”

Ngụy Đông Đình và Ban Bố Nhĩ Thiện từ cửa hông bên tả đưa Khang Hy vào thẳng đại nội, có Trương Vạn Cường, Lang Thẩm nghênh đón, mới lui ra.

Ra khỏi Thiên An Môn, Ban Bố Nhĩ Thiện cười nói: “Còn sớm lắm, ngày còn dài về nhà làm chi. Đi, tôi mời!” Thế là hai người gửi các thứ cho người khác, nhanh bước đi về phía lầu trống phía tây.

Quán trà lầu trống tây nằm ở nơi phồn hoa nhất ngoài cửa Tuyên Võ. Ngay trước một tấm biển to đề bốn chữ “Lầu trống Thanh Phong”, là ngự bút của Hoàng đế Chính Đức triều Minh trước. Hai bên là hai câu liễn đối:

Hương bỏ Sơn âm điểm điểm mai trong tuyết

Sắc át Hà dương mênh mênh gió trên ngàn

Cũng là ngự thư của Chính Đức. Cũng nhờ cái biển này, mà hơn trăm năm nay, chủ quán làm ăn càng ngày càng lớn, Kim Lăng, Tô Châu, Hàng Châu nơi nào cũng có chi nhánh.

Ban Bố Nhĩ Thiện cười nói: “Ngài Chính Đức tuy rất phóng đãng, nhưng chữ viết cốt cách phi phàm, là phái chính chữ vàng gầy truyền lại.” Ngụy Đông Đình cũng cười nói: “Chính Đức không ngu tối, nếu không có bọn tiểu nhân Giang Bán loạn chính, cũng chưa chắc đã bất kham như vậy.” Ban Bố Nhĩ Thiện gật đầu nói: “Đúng là như vậy.” Nói rồi vào quán. Nói là quán trà, thực ra bàn uống trà chỉ chiếm một phần buôn bán rất nhỏ. Dưới lầu các món ăn nhẹ, các món thịt cá đủ kiểu không thiếu thứ gì. Mấy tên chạy bàn bận rộn vã đầy mồ hôi. Hai người thấy phía dưới chen chúc quá bèn bước lên tầng trên.

Vừa bước lên lầu, Ngụy Đông Đình nhìn thấy ngay Hồ Cung Sơn một mình tự rót tự uống, với vẻ mặt vàng hều, mắt ba góc, mày chổi xể, trông rất buồn cười, liền cười nói: “Ông Hồ, hào hứng quá hè, tự vui một mình sao?”

Hồ Cung Sơn vội đứng dậy cười nói: “Ngụy đại nhân, lâu ngày không gặp, ngài kiết tường chứ!” định vái chào. Ngụy Đông Đình vội kéo lên nói: “Không dám, cần gì!” Hồ Cung Sơn nhìn Ban Bố Nhĩ Thiện cười nói: “Vị tiên sinh này trông quen lắm, gặp nhau ở đâu rồi ấy! Ban Bố Nhĩ Thiện nghiêng đầu suy nghĩ cả buổi nói: “Hình như đã gặp ở nhà ông Hoàng trong phủ Nội Vụ.” Hồ Cung Sơn cười nói: “Đúng rồi, đúng rồi, là Ban đại nhân, vãn sinh thất kính. Lão Thái gia Hoàng Tổng Quản năm ngoái trúng gió, chính vãn sinh xem mạch.”

Ba người mải nói chuyện, tên hầu bàn đứng bên chờ lệnh, thấy lúc đó có dịp vội cung kính nói xen vào: “Ba vị xin mời ngồi phía này.” Rồi đưa khăn nóng mời lau mặt. Ban Bố Nhĩ Thiện mỗi tay cầm một cái, mời Ngụy Đông Đình và Hồ Cung Sơn ngồi xuống, nói: “Tôi đã hẹn trước với Hổ Thần, tôi xin đứng làm chủ mời các các vị, chúng ta chưa say thì chưa xong.”

Hồ Cung Sơn nói: “Vãn sinh đã uống rượu trước rồi, chỉ sợ theo không kịp các vị.” Ngụy Đông Đình cười: “Ông ta nhiều tiền lắm, chúng ta quậy một chầu có đáng gì.” Anh biết Ban Bố Nhĩ Thiện có mánh khóe gì rồi, lại không rõ Hồ Cung Sơn là người thế nào. Nghĩ rằng đây là một dịp để thăm dò, Ban Bố Nhĩ Thiện đã nghe Nạp Mô nói Ngụy Đông Đình dẫn Hồ Cung Sơn vào khám bệnh cho Khang Hy, ông cũng không hiểu được Hồ Cung Sơn muốn xem xem tay Trình Giảo Kim bắt gặp giữa đường này, rốt cuộc là người thế nào, nên cũng hết lòng kéo Hồ Cung Sơn vào cùng nhậu. Hồ Cung Sơn cười thầm trong bụng: “Hai người này hôm nay như keo như sơn, ta chẳng ngại gì nhìn xem trong bụng họ có thứ gì!”

Ba người tâm trạng khác nhau cùng ngồi chung, anh hầu bàn biết họ đều là quan viên liền mang lên cho mỗi người một chén trà Phổ Nhĩ, rồi lắng nghe sai bảo.

Ban Bố Nhĩ Thiện hớp một ngụm trà nói: “Mi cứ chọn thức gì ngon nhất mang lên là được.” Tên hầu bàn nghe hồi lâu đã biết vị này là đại nhân Ban Bố Nhĩ Thiện. Đối với các ngài con vua cháu chúa đâu dám khinh suất, hắn cuống lên, dạ một tiếng rồi vội vã xuống lầu.

Chẳng bao lâu, mấy anh bếp mang thức ăn lên, chạy như đèn kéo quân. Ngụy Đông Đình thấy cả một bàn đầy đủ Mãn Hán cùng mâm, liền cười nói: “Ba người chúng ta trở thành Phật Di lặc to bụng cả, đâu có cần nhiều như vậy.” Tên hầu bàn cười theo: “Danh nghĩa tuy là Mãn Hán cùng mâm nhưng không đủ, nên chỉ chọn làm mấy món mới nhất, mong đem tốt lành lại cho các đức ngài.” Hồ Cung Sơn cảm thấy hứng thú, cười ha ha: “Ngụy đại nhân đừng làm mất hứng, có gì khó đâu, tôi có thể chở hết, đáng tiếc tôi không biết gọi tên là gì.”

“Xin bẩm ngài,” tên hầu bàn mặt cười hớn hở, chỉ ra tên gọi từng món: “Đây là gà trống báo hỷ, phật thủ sinh hương, trứng bồ câu Đĩnh hồ tố, phúc thọ an khang, hàu trùm bào ngư, dùng bốn con bào ngư khô, sợ chạy khắp thành Bắc Kinh cũng khó gặp, kia là tôm hùm dầm chao, công xòe cánh múa, kỳ lân chân gấu, bốn món rau nóng, hỷ quan tiến tước, sữa ngọc ve vàng, rồng ẩn hổ buộc. Ngoài ra còn nước nấm bạc hoa tuyết, đồ ngọt điểm tâm, nở hoa phú quý bốn kiểu...” Hồ Cung Sơn nghe mặt mày rạng rỡ, hoa chân múa tay, liên tiếp nói: “Hay, hay! hôm nay được bữa ra trò, hưởng thụ thoải mái!”

Ban Bố Nhĩ Thiện dẩu mồm nhìn Hồ Cung Sơn và cười với Ngụy Đông Đình: “Hổ Thần, bữa nay ngoài trời còn biết có trời đấy! Xin nâng ly.” Ba người cùng bưng ly nhấp một ngụm. Ban Bố Nhĩ Thiện gắp một miếng sữa ngọc, nói: “Mời!” Rồi như có vẻ buồn, chau mày nói: “Béo lắm.” Ngụy Đông Đình nhắm một miếng nói: “Ngon! anh Hồ, mời!” Hồ Cung Sơn không lên tiếng, gắp một đũa, một nửa đĩa sữa ngọc sạch trơn, bên này một gắp, bên kia một gắp, trong nháy mắt, đã làm hết đĩa. Ban Bố Nhĩ Thiện nhìn sững, nghĩ bụng: “Con người này cái bụng ghê thật.”

Ngụy Đông Đình biết người võ công cao cường, ai cũng ăn như hổ, bèn cố ý cầm chừng, học Ban Bố Nhĩ Thiện chỉ chọn những món thanh đạm ăn mấy miếng, chỉ ngồi nhìn Hồ Cung Sơn thu dọn cả bàn tiệc. Hồ Cung Sơn cũng biết thế, cười nói: “Ngụy đại nhân nhìn tôi buồn cười, há chẳng biết duy đại anh hùng có bản sắc, là danh sĩ thật, tự phong lưu!”

Ban Bố Nhĩ Thiện cười nói: “Ông Hồ chẳng giống nhà danh y chút nào, quả là một con người kỳ lạ!” Đang nói thì một bát “rồng ẩn hổ buộc” đã được Hồ Cung Sơn quét sạch. Ông chùi mồm cười nói: “Không phải khoác lác sau khi uống rượu vào chứ, vãn sinh từ nhỏ đã cầu thầy học tận trên núi cao, các thuật phong thủy, độn quẻ, xem tướng cũng biết được ít nhiều, đáng tiếc sống không gặp thời nên mới lấy nghề y nuôi miệng.” Ban Bố Nhĩ Thiện rất tin những thuật này, vội cười nói: “Tiên sinh tinh thông tướng số, hãy xem cho hai chúng tôi thử nào?”

Hồ Cung Sơn mồm đang nhai tay gấu, vừa ăn vừa nói: “Bây giờ say muốn mờ mắt rồi làm sao xem tướng được! Hai vị nói ra một chữ, tôi sẽ đoán cho điềm lành dữ.”

Ban Bố Nhĩ Thiện ngước nhìn lan can lầu, bụng nghĩ phải tìm chữ gì thật khó, hồi lâu mới nói: “Tôi ra chữ “nãi”!”

“Được!” Hồ Cung Sơn mồm nhai vi cá, cười nói úp úp mở mở: “Quả là khó cho ông tìm ra chữ này! “nãi” là chữ “cập” thiếu nét, “cập” là “thái quá cũng như bất cập”, các hạ e thường nghĩ thái quá mà không nghĩ thành công, xem ra làm quan là đúng. Cứ theo bản ý, “nãi”, không “công” không thành “xảo”, không “nhân” không thành “nhưng”, không “mãnh” không thành “doanh”, tất cả đều do tâm lao lực thái quá. Xét hình dáng chữ, bên hữu nguy cấp, phía trên bằng đầu, bên tả vách dựng, xét về mặt công danh, không thể cầu tiến thủ nữa, e có rất nhiều trở ngại!” Nói xong tiếp tục ngồi xuống ăn.

Ban Bố Nhĩ Thiện mặt hơi tái đi, rất lâu mới cười nói: “Túc hạ vừa nói nguy cấp bằng đầu, không phải là trèo lên bậc nguy hiểm, rồi sau là ngựa đi đất bằng chăng?” Hồ Cung Sơn dùng thìa múc hai trứng bồ câu bỏ vào mồm, uống một ngụm rượu rồi cười nói: “Đương nhiên là vậy, nhưng thánh nhân vạch đường, vốn là để cảnh tỉnh cuộc đời và con người, “Nguy cấp” đó là bậc thềm không vững, rộng đến một thước đủ thấy nguy hiểm chừng nào, túc hạ phải cẩn thận mới được. Nếu như giữ vững việc cung kính, mười là số tròn, nhất định các hạ có thể yên ổn làm quan mười năm nữa, cứ yên tâm!” Ban Bố Nhĩ Thiện chỉ im lặng.

Ngụy Đông Đình cười nói: “Tôi thì ra một chữ tục.” Ban Bố Nhĩ Thiện nháy Hồ Cung Sơn một cái, cười nói với Ngụy Đông Đình: “Mong được tin tốt.” Ngụy Đông Đình cười vẽ lên bàn chữ “Ý”.

Trong lúc nói chuyện cứ ăn cứ uống, đã làm hết sạch mấy đĩa “Tay phật lên hương”, “Gà trống báo hỷ”, vừa thò đũa sang đĩa “Hỷ quan tiến tước”, vừa thờ ơ cười nói: “Chữ này hình thể trang trọng, không nhánh không dây, tâm tính quân tử là chính đại, dưới có “tâm” mà trên có “lập” ở giữa là mặt trời, bẩm tính trung chính, bên trái thêm “tâm” thành “ức”, một đời phải lo toan, khó được an ninh. Nếu thêm “nhân” cũng là “ức”, túc hạ tiền đồ thật đáng mừng vui, sau này nhất định là ông nhà giàu!”

“Tôi tối kỵ chuyện tiền tài,” Ngụy Đông Đình chau mày nói: “Xin tiên sinh đoán tiếp.” Hồ Cung Sơn lắc đầu: “Xét đoán theo lý, chỉ có thể như vậy. “Ý” là “tâm”, trên có “âm”, có thể xem là “lập nhật chi tâm” (lòng đựng mặt trời) không có gì phải nghi ngờ, túc hạ suốt đời được Chúa thượng tin yêu.” Nói tới đây, Hồ Cung Sơn cười ha ha, nói: “Trò chơi này có thể làm đầu đề lúc trà dư tửu hậu. Số trời mênh mông người hiền giả còn không đoán nổi, sao lại chỉ tin qua miệng lưỡi của Hồ tôi. Chỉ mong hai vị sửa đức để tự làm vững cho mình. Đối với hai chữ “lành dữ” cũng không nên quá quan tâm.”

Hồ Cung Sơn ăn nói ào ào, thao thao bất tuyệt, một bàn đầy ắp rượu thịt lúc này đã hết nhẵn. Ngụy Đông Đình thấy ông ta không câu thúc giữ kẽ như lần trước gặp Khang Hy, mà luận bàn sinh động, nói năng tự nhiên, bụng nghĩ: “Nếu xét người này thì cũng là một nhân tài.” Ban Bố Nhĩ Thiện suy ngẫm việc Hồ Cung Sơn đoán chữ cho mình, cảm thấy có ý châm chọc, nhưng không có gì làm cớ, chỉ cười gằn một tiếng nói: “Nếu như đoán chữ như thế này thì người anh em cũng có thể thử làm được. Xin ông Hồ cho một chữ.” Hồ Cung Sơn cười nói: “Được, cứ lấy chữ “Hồ” họ của tôi vậy.”

“Hồ,” Ban Bố Nhĩ Thiện nháy hai con mắt, cười nói, “cắt ra thành “cổ” “nguyệt”, cổ thuộc âm, “nguyệt” thuộc thái âm, nói túc hạ thành phú thâm trầm, giỏi che giấu tài năng. Có “nguyệt” không có “nhật” không thành chữ “minh”, đủ thấy túc hạ lòng ôm mặt trời mà kỳ vọng khác vậy!, bên trái thêm “thủy” thì thành “hồ” nước, cũng thuộc âm, thấy được túc hạ sẽ nhàn du trên sông nước biển hồ vậy! Người xưa nói: “Đại ẩn ở triều, trung ẩn có chợ, tiểu ẩn ở ruộng đồng.” Xét tài năng, túc hạ nhất định là đại ẩn vậy!”

Nghe ông nói một tràng chữ “vậy”, Hồ Cung Sơn bất giác đổ mồ hôi lạnh, cả rượu cũng chảy ra theo mồ hôi. Ngụy Đông Đình nghe những lời này cũng thấy tim đập thình thịch, thấy Hồ Cung Sơn rất lúng túng bèn cười nói: “Những lời Ban đại nhân và Hồ huynh làm tôi nhớ lại hai câu thơ cổ: Sóng cao thác hiểm rền sấm sét. Cây cỏ bìm xanh che trời trăng. Có điều cho dù ngày nay có một số người vẫn còn nhớ cái xưa, cũng không lấy gì làm lạ. Nhớ năm xưa khi triều ta vây đánh diệt giặc Sấm, cũng đã giương cờ báo thù cho nhà Minh thôi.”

Những lời này của Ngụy Đông Đình đối với Ban Bố Nhĩ Thiện vừa có châm biếm vừa vẫn giữ lịch sự, nhưng với Hồ Cung Sơn có ý giải tỏa rất lớn. Nên ba người bất giác nhìn nhau cùng cười, rồi không tiếp tục câu chuyện này nữa. Ngụy Đông Đình nhìn ngoài trời nói: “E đã tới giờ Thân rồi, chúng ta đi cả ngày rồi, phải về thôi.” Ban Bố Nhĩ Thiện cũng cảm thấy nên kết thúc, liền gọi chủ quán tới tính tiền. Ba người bước ra bên ngoài, vái chào từ biệt. Ngụy Đông Đình mới đi được mấy bước đã thấy Minh Châu từ phía lầu Gia Hưng đi tới, biết là anh ta sang bên cô Thúy.