Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 24

24

Chú Tiểu Mao chơi khăm đại thị vệ

Vua Khang Hy dạ yến đãi anh hào

Nàng Tô nói không sai, nỗi lo ngoài chưa giảm thì nạn quấy trong ngày càng cận kề, ngôi vua cũng trong cơ nguy ngập. – Những điều lo xa này là việc của những ông vua thời bình, còn mình trước mắt còn có việc khẩn cấp. Khang Hy đau đớn nhắm mắt lại. Nàng Tô thấy vua nhắm mắt ngồi yên tưởng là vua buồn ngủ, vội đốt hương trầm đặt trong lò sưởi, rồi sai cung nữ tắt bớt đèn lớn, chỉ để lại chiếc đèn chụp hồng lục trên án, rồi tiến lên thỉnh thị: “Đức Vạn tuế nên đi nghỉ thôi.”

“Bảo bọn chúng lui ra.” Khang Hy khoát tay nói, chỉ mình ngươi hầu ở đây cũng đủ. Ngươi buồn ngủ thì cứ nằm bên cạnh lò sưởi. Trẫm không buồn ngủ, còn phải nghĩ một số việc.”

Nàng Tô theo lời sai bảo bọn thuộc hạ, còn mình nằm bên lò sưởi giả vờ ngủ.

Khang Hy ngồi một lát, nhưng trăm lo ngàn mối dồn tới: Ngao Bái lộng hành phi pháp đã tới nước này, dám công nhiên mượn chiếu làm bậy, khám xét phủ Đệ đại thần, mưu việc giết vua! Thị vệ thân binh đại nội tuy nhiều, nhưng thực lực nắm trong tay có thể cứu nguy khẩn cấp thì còn lèo tèo như sao buổi sớm. Nhìn qua một lượt, người nào cũng đáng ngờ. Tuy mình mỗi ngày vẫn tiếp nhận triều bái của đại thần trong ngoài tại cung Càn Thanh, còn là Hoàng đế tối cao, nhưng vẫn có cảm giác như “người ngoài” – Đó chỉ là cảnh giả bên ngoài. Làm Thiên tử trong thành đại nội mà không biết đâu là chỗ an toàn cho mình, nghĩ ra càng thêm ớn lạnh.

Vua bỗng nghĩ tới, nếu giết Ngao Bái, cũng phải trong đại nội. Bởi vì bên ngoài, Ngao Bái nắm nhiều tướng tài, có nhiều mưu sĩ, làm sao ra tay được! Ba điện lớn dĩ nhiên là không được, vậy phải ở các điện Giao Thái, Phụng Tiên, Dưỡng Tâm, Thể Nguyên, Khâm An, Văn Hoa, Võ Anh, phòng dâng sách …… nơi nào tốt nhất? Vua điểm ra từng điện một, phân tích nhân sự, xem xét địa hình, phòng bị cơ mật, cho đến đường rút, mọi việc đều suy nghĩ thấu đáo. Bỗng một ý tưởng lóe lên, vua nghĩ tới cung Dục Khánh. Vua mở mắt nhìn chăm chăm ngọn đèn đỏ trên án. Nơi này cung cấm thâm nghiêm, nhưng không quá hẻo lánh, đường đi ngoằn ngoèo, có thể ẩn rồng giấu hổ, là nơi tốt để giăng bẫy bắt Ngao. Hơn nữa tổng quản thị vệ cung Dục Khánh Tôn Điện Thần là người tâm phúc của mình, đám thị vệ Lang Thẩm lại là bạn bè của Oa Hách đã bị Ngao Bái giết chết. Nơi này được!

Nhưng đám Tôn Điện Thần không giống Ngụy Đông Đình. Muốn có người làm việc đại sự cơ mật thì phải mua được hắn giống như Ngụy Đông Đình chỉ biết có Trẫm!

Nghĩ tới đây, Khang Hy vụt đứng lên, đi tới trước nàng Tô định gọi dậy, nhưng nghe hơi thở điềm tĩnh, biết nàng đã ngủ, bèn quay lại nhẹ nhàng lấy chiếc áo bào đắp cho nàng. Đâu ngờ nàng Tô bỗng mở mắt, quay người ngồi dậy nói: “Chủ nhân có việc gì?” “Tối mai,” Khang Hy hạ thấp giọng nói, “Trẫm muốn gặp Tôn Điện Thần và Lang Thẩm.”

“Tôn Điện Thần?” Nàng Tô hỏi, Khang Hy gật đầu khẳng định. Nàng Tô trầm ngâm giây lát, nói: “Nô tài rõ rồi, – tại đâu?”

“Đến nhà tiểu Ngụy” Khang Hy thận trọng nói, “Việc này ngươi sắp xếp, phải cơ mật!”

Mắt nàng Tô sáng lên, vùng đứng dậy nói: “Chủ nhân yên tâm!”

Tiểu Mao thua bạc, đem tiền mua thuốc cho mẹ nướng sạch vào sòng bạc.

Hắn là tay cờ bạc, cha mất sớm, mẹ góa nuôi hắn và anh hắn khổ sở suốt mười hai năm. Về sau, anh lấy vợ, ra ở riêng, để hắn và mẹ già lại. Mẹ già phải khâu thuê sống qua ngày. Không ngờ mẹ tuổi cao, xương khớp yếu đuối, gặp tháng Chạp giặt quần áo, đông cứng hai tay, các khớp sưng vù đau tới xương tủy, không làm việc gì được. Chị dâu ác độc, chỉ có người anh lén tiếp tế cho chút ít, làm sao nuôi được hai miệng ăn!

Đúng lúc đó, trong cung cần người, Tiểu Mao cùng đường, nổi cơn điên lên, lén đi thiến, lấy được hai quan rưỡi tiền để nuôi sống mẹ già. Sau mẹ nghe được, tức quá hai mắt mờ đi, từ đó thành người mù. Để lấy tiền thuốc thang cho mẹ, Tiểu Mao phải ăn cắp một ít đồ vật vặt vãnh trong cung đem ra chợ đổi lấy tiền, nếu không thì nhờ tài vặt, đánh bạc lấy ít tiền về thuốc thang cho mẹ già. Trong cung nhiều việc mọi người không để ý. Mùa đông năm nay lạnh rất sớm, mắt mẹ chịu không nổi, mình lại thua bạc, thật là kêu trời trời không ứng kêu đất đất chẳng linh!

Chỗ anh họ Vãn không dám cầu xin, tuy ít nhiều cũng có, nhưng cầu một lần thì bị một trận chửi, quả là mất mặt, huống chi người ta cũng là một nhà vọng tộc. Còn phía Ngụy Đông Đình thì hễ cầu là được, nhưng cầu xin hoài cũng khó mở miệng. Không còn cách nào, đành xuống nhà bếp kiếm đầu bếp A Tam xin vay hai xâu, ông ta là con nuôi của Nạp Mô thế nào cũng có cách.

“Tiểu Mao!” A Tam nghe biết ý đồ, liền cười nhạt nói: “Bữa nay chịu thôi, ta vay tiền cho mi, vốn không nói, ngay cả tiền lời cũng không trả được, ta đang khó đây! Mẹ mi bệnh, coi như mi làm việc hiếu, lý ra nên cho mi vay nhưng ta không thể lấp được cho mi cái lỗ không đáy!”

Tiểu Mao thấy A Tam mặt khó đăm đăm, chửi thầm: “Mẹ này, dựa vào ông bố nuôi, ra vào dễ dàng, ăn cắp bao nhiêu đồ trong nhà bếp. Mẹ mày phất lên rồi, đến ông mày vay chút đỉnh mày lại lên mặt như vậy!” Nhưng miệng cười hi hi nói: “Tôi còn thiếu Tam ca mười bốn lượng, với ông anh chừng đó có đáng gì! Ông anh cho em vay hai xâu, tháng sau thế nào cũng trả đủ cả vốn lẫn lời, được không?”

“Đồ khỉ nhóc con, chỉ có mày!” A Tam cười nói, “Nói lý, thì không nên cho mi vay nhưng cũng đáng thương. Ta đây còn bốn tiền, mi lấy đi bốc thuốc. Tháng sau vốn lời không trả hết, hãy cẩn thận, ta báo với đại thị vệ Nạp Mô đánh chết mi đấy!”

Không cách nào khác, Tiểu Mao đành phải nhận. Khi từ nhà bếp đi ra, thấy ở đầu tường có một cái lò lớn trên có một bát nhỏ đậy nắp vừa bằng nắm tay, miệng bát có hai con ve lớn cánh xanh biếc, như đang uống rượu, quả thật là thứ đồ quý giá, không biết ông quan nào cống tặng. Thấy xung quanh không ai để ý bèn nhón lấy cho vào bụng rồi đi ra. A Tam đứng bên kia cửa kính nhìn thấy rõ, nhưng không lên tiếng.

Buổi tối, Tiểu Mao hầu nước ở cung Từ Ninh, nghe nói A Tam dẫn theo bốn tên nhà bếp mang các thức ngự thiện không hết sang cung Càn Thanh thưởng cho thị vệ trực đêm, đợi Thái giám bên điện Dưỡng Tâm đến gánh nước, thu dọn xong về phòng an nghỉ. Bỗng thấy Nạp Mô bước nhanh vào, Tiểu Mao vội xuôi tay đứng thẳng, cười nịnh nói: “Nạp gia, ngài dùng cơm chưa?”

Nạp Mô mặt lạnh như tiền “hừ” một tiếng, không thèm quay đầu, bước vào kho để trà và dụng cụ pha trà, đứng giữa quan sát bốn bên, Tiểu Mao biết có chuyện, nhưng không biết hắn đến làm gì, khệ nệ bưng chiếc ghế tới, cười mỉa nói: “Ngài ngồi xuống đây, tôi sẽ pha trà ngon cho ngài – mới có trà Long Tỉnh, hay là Phổ Nhĩ?” Nạp Mô khoát tay cười nhạt: “Đừng giở trò đó ra với ta! Ta hỏi mi, hôm nay mi lấy cái gì ở nhà bếp lớn?”

“Nhà bếp lớn?” Tiểu Mao nghe như sét nổ bên tai, mặt trắng bệch ra, gượng cười nói: “Tôi tới anh Tam vay tiền, chắc là mất cái gì rồi? Đồ đạc bên đó tôi đâu dám động tới!”

“Chốc nữa đây sẽ hết già mồm!” Nạp Mô giơ tay định tát, nhưng nghĩ lại, dừng tay, tự mở tủ chè ra, lục soát bên trong.

Cái bát có nắp tuy không nằm trong tủ chè, nhưng Tiểu Mao biết không xong, nếu để hắn xáo lộn tùng phèo, nhất định sẽ phát hiện ra. Người thông minh không để thiệt trước mắt, Tiểu Mao bạo dạn tiến lên cười ngăn lại: “Tủ trà ngự này không được xáo trộn, trong đó có một số trà cống lên ngay cả niêm phong cũng chưa mở ra, lật tung lên già Triệu không cho đâu.”

“Bạch!” Tiểu Mao chưa dứt lời, mặt bên trái bị ngay một cái tát nổ đom đóm, sưng vều lên ngay. Tiểu Mao vốn là tên lưu manh có hạng, đâu chịu ăn ngón đòn này, anh định thần lại kêu to: “Đồ bọ hung rúc đống phân, mày hung hăng gì ở đây! Mày không nhìn xem đây có phải chỗ của mày không? Có điều nể mặt Ngao Trung đường, gọi mày một tiếng “đại nhân” mày đã vênh cái mặt thối của mày. – Cút ngay, đi khỏi đây ngay!”

Nạp Mô nổi cơn thịnh nộ: “Đồ súc sinh, đừng nói mày, bọn cứng đầu nữa, ta cũng cạo hết!” Vừa chửi, tả hữu vung hai nắm đấm “bốc bốc”. Quay lại nhặt xâu chìa khóa trên bàn, mở ra bảy tám cánh cửa tủ, lục soát từng ngăn.

Tiểu Mao ngồi bệt xuống đất, vừa khóc vừa la: “Các người, đây là thuộc quyền Triệu lão gia mắc mớ gì đến các người?” Thấy Nạp Mô không thèm để ý, vẫn một mạch lục tìm, anh sốt ruột lắm, nảy ra một kế, đứng dậy, không kịp đề phòng, giật ngay xâu chìa khóa bỏ chạy, không đợi Nạp Mô hiểu ra là việc gì, “cạch cạch” một tiếng khóa trái kho trà lại, vừa chạy vừa la:

“Mọi người mau tới xem! Triều Đại Thanh có chuyện lạ, đại nhân Nạp Mô đến khám xét kho trà ngự của Hoàng thượng đây! Mọi người mau lại xem. Hoàng Tứ Thôn, anh chết rồi sao? Mau đi tìm Triệu lão gia tới mau!”

Các thị vệ đang ăn cơm ở cung Càn Thanh, các thái giám ăn xong rảnh rỗi, nghe bên này vừa khóc vừa la, xen cả tiếng chửi rủa, làm ầm ĩ cả lên, không biết xảy ra chuyện gì, đều chạy ào tới xem.

Nạp Mô bị khóa trong phòng, lúng túng tay chân một lúc, vội chạy ra kéo cửa – cửa khóa chắc như kiềm sắt, kéo không nhúc nhích! Liền quay người đi đóng các cửa tủ trà. Những cái khóa này do nước Hà Lan tiến cống, chế tạo rất đặc biệt, không có chìa thì mở không ra mà đóng cũng không vào. Tiểu Mao cầm chìa khóa đi rồi, làm sao đóng lại được? Bối rối làm ngón tay út suýt nữa bị kẹp đứt, đau đến nổi vừa nghiến răng vừa dậm chân. Không cẩn thận làm một cái vò đặt trên bàn chưa mở niêm phong lăn xuống đất kêu “rảng” một tiếng, lá trà tung tóe khắp mặt đất. Người tới xem bên ngoài không biết bên trong quấy động gì nghe tiếng kêu đều kinh ngạc.

Bỗng nghe có tiếng người quát to: “Việc gì mà la lối ồn lên thế, còn ra cái thể thống gì nữa?” Mọi người quay đầu lại nhìn, thì ra là Tổng quản điện Dưỡng Tâm, Thái giám Trương Vạn Cường tới, liền tránh đường cho đi. Tiểu Mao không chịu cũng không tha, tiến lên khóc kể: “Trương công công đến rồi, lão gia ngài xem xem, đại nội chúng ta còn có phép tắc gì nữa!” Nói xong, cạch một tiếng mở cửa ra.

Mọi người nhìn thấy không nhịn được cười, tên Nạp Mô quả rất bối rối, các cửa tủ trà đều nửa khép nửa mở, dưới đất gói nhỏ gói lớn những lá trà bị giẫm đạp nát nhàu. Hắn còn tay phải nắm ngón út tay trái, vò vò, đau đến nghiến răng nhăn mày. Thấy cửa mở, hắn phóng nhanh ra như tên, nắm ngực Tiểu Mao nhấc bổng lên, định dùng ngón đòn hiểm. Trương Vạn Cường vội quát to: “Không được vô lễ! Từ từ nói, làm sao thế này?”

Nạp Mô chẳng coi Trương Vạn Cường ra gì! Hắn nhăn mày chửi độc: “Từ cổ chí kim, bọn bị thiến không có người tốt, ông cũng chẳng tốt lành gì…” Còn đang muốn chửi nữa, đã thấy nàng Tô từ phía sau đi tới, mặt lạnh như băng trừng trừng nhìn mình, hắn liền buông tay bỏ Tiểu Mao ra.

Nàng Tô vừa mới đưa Khang Hy đi. Lúc đó, đám người náo loạn cả lên mà không ai có ý kiến gì. Làm xong việc được giao, nàng Tô rảnh rỗi xúm lại xem. Vừa thấy nàng tới, Tiểu Mao vội lau nước mắt, bước lên vấn an, nghẹn ngào nói: “Chị cả Tô, Thị vệ Nạp Mô nói tôi ăn cắp đồ gì ở nhà bếp, tự mình tới đây khám xét, chị xem, xáo tung cái nhà lên như thế này đây!”

Nàng Tô từ từ hỏi: “Mất cái gì?”

“Tôi cũng không biết, chị hỏi hắn!” Tiểu Mao chỉ Nạp Mô nói.

Nạp Mô giận tái mặt, nói: “Hắn ăn cắp một cái bát quân có nắp đậy!”

“Ai nhìn thấy?” Nàng Tô nhìn hắn hỏi.

“Tôi,” A Tam đứng một bên lên tiếng vẻ đắc thắng, “Chính mắt tôi nhìn thấy thực mà!”

“Đồ đạc ở trong nhà bếp của anh.” nàng Tô mau miệng hỏi, “anh là người trong bếp ngự, đã nhìn thấy vì sao không chặn lại bắt ngay? Thật là ngược đời! Trương Vạn Cường, báo cho Triệu Bỉnh Thần cách chức hắn ngay!” Rồi quay lại nói với Nạp Mô: “Cho là anh có lý mấy đi nữa, thì mọi đồ vật trong cái kho trà ngự này đều là của Hoàng thượng, đánh chó còn phải nể mặt chủ, làm sao anh dám tùy tiện khám xét? – Anh đi đi, việc này ngày mai sẽ phân giải rõ ràng.”

“Nhưng cũng phải xem xem trong đó có cái bát có nắp không chứ!” Nạp Mô giận tái mặt, việc có lý làm ra như thế này, quả thật chịu không nổi, suy nghĩ rồi nói thêm một câu: “Cái bát có nắp này cũng là vua dùng, hắn ăn trộm, lại không có tội sao?”

“Được!” Nàng Tô cười nói, “Khám ra rồi trị một thể!” Nói xong bèn bước vào kho, xem kỹ từng ngăn tủ, Tiểu Mao tim đập muốn rụng ra.

Nàng Tô trước hết xem xét ngăn tủ để trà, rồi quay lại xem tủ để đồ uống trà, xem xét từng cái một, khi xem đến ngăn tủ cuối cùng, cái bát có nắp với cặp ve sầu hiện ra trước mắt. Lúc này Tiểu Mao mặt không còn cắt ra hột máu thì thấy nàng Tô thò tay vào xáo một hồi rồi rút tay ra, phủi tay mắng: “Trong đó bụi dày đến hai đốt ngón tay, tên nô tài này làm việc kiểu gì vậy!”

Tên Tiểu Mao sợ quá mồ hôi toát ra đầy người, nghe mắng “bên trong bẩn”, vội liên tiếp nói: “Chị Tô mắng đúng, ngày mai tôi sẽ lau chùi!” Trong bụng thắc mắc không hiểu vì sao cô không lật lớp giấy này ra.

Nàng đến chỗ khác xem xét, rồi sau đi ra nói: “Không tìm thấy gì. Bọn thị vệ các anh xem kỹ một chút, thấy có báo tôi biết, tôi sẽ trị hắn!” Nói xong yên lặng bỏ đi.

Tôn Điện Thần hết ca trực, nhân lúc người đông lẻn ra cửa hông bên trái. Anh trước nay phục dịch cẩn thận, ôn hòa, quan hệ tốt với mọi người nên không bị thị vệ cửa Cảnh Vận để ý. Anh vừa đi vừa suy nghĩ, quả là không đoán nổi người thân cận của Đức Vạn Tuế – Ngụy Đông Đình vì sao đêm nay vô cớ mời anh đến phủ, còn nói sẽ gặp mấy vị quý nhân – Ta phục dịch trong cung, loại “quý nhân” gì mà chưa gặp, cần chi làm cái trò quỷ này?

Vượt qua cầu phía đông Hổ Phường, quẹo qua con hẻm lau lách là một khu dân cư đông đúc, ở đây phố xá ngang dọc rất phồn hoa. May là anh đã làm sai dịch tuần phòng nha môn mấy năm, vùng này từng thuộc anh coi sóc. Nếu hơi lạ một chút, tối mịt thế này, phương hướng đông tây nam bắc còn nhận không ra, đừng nói là tìm ra người.

Theo con đường Ngụy Đông Đình chỉ, qua khỏi cầu Hổ Phường chừng hai dặm, quẹo phải quẹo trái vào các con hẻm như chui vào trận mê hồn, bỗng cảm thấy sáng rộng, một cơn gió mát thổi tới, cái lạnh thấm vào xương, đã thấy phía trước có hai người cầm đèn đợi hầu. Thấy anh tới từ xa đã xích đèn tới hỏi nhỏ: “Có phải Tôn gia đến đó chăng?”

Tôn Điện Thần nói phải, đi lại gần nhìn thì là một lão bộc, một người nữa thấy quen mặt, biết đã có phục dịch trong cung, đã có gặp rồi, nhưng tên thì không nhớ, vội cười nói: “Phiền các anh phải đợi ở đây, con đường này thật ra tôi còn nhớ.” Lão bộc cười nói: “Tôn gia là khách hiếm đương nhiên phải đón.”

Nhưng vào đến sân thì không thấy chủ nhà ra đón, đưa mắt nhìn, trong bàn đã có năm sáu người ngồi, một ông lão quắc thước, năm người còn lại đều là trai trẻ trên dưới hai mươi. Trong đó Mục Tử Húc, “Lừa bướng” do có thử võ công với Ngao Bái ở trong cung, anh có biết, vội chắp tay cười nói: “Mục tiên sinh, Khương tiên sinh, vẫn khỏe chứ? Chào mọi người, hạnh ngộ, hạnh ngộ!” Người dẫn đường Tư Hách cười nói: “Rốt cuộc Tư Hách này danh tiếng thấp, uổng công đưa đường Tôn gia đến đây?” Tôn Điện Thần bỗng nhớ lại, vội xin lỗi, rồi nói: “Vị lão tiên sinh này với hai vị mới gặp nhau lần đầu.”

Minh Châu cười cởi mở: “Tôn gia, tại hạ Minh Châu, ngài cũng nên nhớ lại, hôm thử võ với Ngao Bái có gặp, có điều tôi chưa ra tay, nên ngài khó nhận ra. – Vị này là lão anh hùng họ Sử, người trong giang hồ gọi là La Hán Sắt Sử Long Bưu. Vị này là Lưu Hoa, hiện phục dịch trong phủ Ngao.”

Tôn Điện Thần nghe giới thiệu bao nhiêu lai lịch đó thấy hơi khó hiểu, miệng lại cười nói: “Nghe tiếng đã lâu, nghe tiếng đã lâu! – Chúng ta đều đến rồi, sao không thấy chủ nhân?” Lão bộc cúi mình trả lời: “Ngụy đại nhân đang nói chuyện với một quý nhân ở nhà sau. Tôn gia xin chờ giây lát.”

Lời vừa dứt, Ngụy Đông Đình xuất hiện, mặt mày hớn hở, vái một vái chào hết mọi người, nói: “Chậm tiếp bạn bè, có tội, có tội! Mọi người xin hãy đứng lên, Thánh thượng giá lâm!”

Câu nói như một tiếng sét nổ giữa sân nhà, cử tọa nhìn nhau thất sắc. Mọi người hoang mang đứng lên, vội vàng làm đổ cả ly rượu. Khi nhìn vào chỗ bức rèm khua động, một trang thiếu niên từ sau cửa bước vào, đầu đội chiếc mũ đoạn nỉ xanh có chóp, áo bào lụa đỏ độn bông, ngoài khoác áo da dê có tua xanh, lưng thắt đai chỉ vàng mềm, chân đi ủng đen trong lót lụa mát, đôi mắt trong vắt có thần, phong độ ung dung tôn quý, tay cầm một chiếc quạt ngà dát vàng, mặt tươi cười hiện ra trước mọi người. Một tả, một hữu đứng sau lưng là hai vị Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý. Hai vị này mặc thường phục theo phụ giá, Lang Thẩm lưng đeo bảo kiếm, bảo vệ một bên – Đúng là đương kim Thiên tử, Hoàng đế Khang Hy đến rồi.

Cử tọa chỉ trừ Sử Long Bưu và Lưu Hoa ra còn đều đã gặp Hoàng đế. Nhưng sự việc diễn ra ngoài ý định nên nhất thời đều kinh ngạc. Ngụy Đông Đình chỉ nói gặp quý nhân, có ai ngờ là người tôn quý như vậy! Tôn Điện Thần giật mình quỳ mọp xuống khấu đầu, miệng hô “Vạn tuế!” Mọi người mới định thần lại, nhất tề quỳ xuống.

Khang Hy nhanh chân bước lên trước, cũng không chia cao thấp, đỡ từng người dậy, cười nói: “Trẫm cũng rảnh rỗi quá bước tới đây, mọi người không nên câu thúc đại lễ như vậy.”

Đi tới chỗ Lưu Hoa, Khang Hy hỏi: “Khanh là Lưu Hoa?” Lưu Hoa xúc động mặt đỏ lên, giọng run rẩy, khấu đầu ba cái rõ kêu, nói: “Nô tài Lưu Hoa cung chúc Thánh chủ vận tuế an khang!” Khang Hy kéo ông đứng dậy, cười nói: “Từ lâu đã nghe Tiểu Ngụy nói khanh tửu lượng khá, đêm nay chớ ngại dùng thêm mấy ly nhé!” Rồi hỏi Sử Long Bưu: “Sử lão anh hùng, khanh thân thể còn cường tráng?” Sử Long Bưu chỉ khấu đầu, ầm ừ nói không ra tiếng.

Mọi người làm lễ xong, vội ngồi vào chỗ. Khang Hy cười nói: “Giảm đi những thủ tục lễ tiết quá nhiều đó! Thực ra hôm nay Tiểu Ngụy làm chủ, cả Trẫm cũng tới quấy thôi.” Rồi ngồi xuống bảo mọi người: “Ngồi xuống cả đi, nếu chỉ câu nệ lễ tiết, thì Trẫm đi vậy.” Nghe thế, mọi người mới chịu ngồi xuống.

Tôn Điện Thần nhìn chung cử tọa, đã đoán biết bảy tám phần tâm tư của Khang Hy. Vì Khang Hy chưa lên tiếng, cử tọa không ai dám nói gì. Vua tôi cùng bàn, rượu ngon mấy cũng khó thấy hứng thú.

Lưu Hoa vô cùng cảm kích vì tối nay được hưởng ân sủng, ông ở phủ Nội Vụ, mười ba nha môn đều trải qua, ở phủ Ngao Bái bốn năm, mấy ngày gặp Ngao Bái một lần, nhưng chưa hề thấy ông ta nhìn thẳng vào mình. Nghĩ tới đây, lòng bỗng nóng lên, đứng dậy chắp tay nói với Khang Hy: “Đức Vạn tuế, nô tài tuy là người thô lỗ, nhưng vẫn hiểu được người sống trên đời trung hiếu làm gốc! Hôm nay Đức Vạn tuế đã biết tới nô tài, dù cho phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng, nô tài cũng quyết báo đáp ơn đức của Hoàng thượng!”

“Tối nay thì chưa làm gì,” Khang Hy gật đầu cười, sau này có việc gì sẽ sai bảo. Tối nay mọi người chỉ cần uống cho thật vui vẻ thoải mái!” Rồi quay sang Minh Châu cười nói: “Như vậy được không?”

Minh Châu không ngờ nhà vua bỗng nhiên nói chuyện với mình, tay chân hơi lúng túng, vội “dạ!” một tiếng nhưng anh vẫn nhanh nhạy hơn người, quay qua cười hùa: “Ngụy Đông Đình có một loạt từ khúc, Đức Vạn tuế chắc muốn nghe?”

“Phải nghe.” Khang Hy cười nói, “Từ lâu nghe Tiểu Ngụy nói khanh cũng rành việc đó, tất nhiên là hay, ngại gì không cho ra mắt để mọi người cùng thưởng thức!”

Minh Châu chắp tay thi lễ, vào trong lấy đàn tranh ra đặt trên chiếc bàn bên cạnh, lên dây thử giọng, tuy chưa ra điệu gì nhưng cũng đã thấy thánh thót mùi tai. Minh Châu một tay ấn dây, một tay cầm miếng gảy, nhìn Khang Hy cười, lên tiếng hát:

Thường rủ bạn thần tiên. Cùng lên tận mây xanh. Thuốc chịu gió nhẹ. Gang tấc lắng nghe trời nói. Được tận cùng vinh dự. Xem đã như rồng biến hóa. Vứt hết gió mưa Linh thoa.

Nghe tới đây, Khang Hy cười nói với Lang Thẩm: “Được nửa bài rồi, có nghe ra là từ gì không?” Lang Thẩm vội nói: “Nô tài đâu có hiểu thứ này!” Khang Hy than rằng: “Khó cho Minh Châu, bài từ này viết hay!” Hùng Tứ Lý lại biết đây là bài Thuyền xuống nước của Hoàng Đình Kiên, lúc đó không tiện nói, chỉ cười làm thinh. Lại nghe đoạn dưới:

Chỗ dạo chơi. Tìm xuân đi thượng uyển. Cỏ thơm sum suê đón bước. Mấy khúc sinh ca. Muôn sắc anh đào quần tụ. Nâng chén ngọc, quay nhìn đất Nghiêu thuở nọ. Rõ là ơn vua không quên.

Nhạc tới đây chậm chậm rồi ngưng. Dư âm còn vang vọng không thôi. Người nghe như lặng đi, bốn bề im phăng phắc, chìm trong niềm vui hân hoan, bỗng nghe Khang Hy chậm rãi nói: “Hay, đương nhiên là hay rồi, nhưng rơi vào tụng thánh, Trẫm lên ngôi đến nay đã gần bảy năm, chưa có ân đức ban thưởng thần dân. Bây giờ xã tắc lâm nguy, lê dân rơi vào vòng khổ ải. Trẫm muốn xóa bỏ các loại tệ đoan này, nhưng lệnh không chấp hành, cấm vẫn cứ làm, mỗi khi nghĩ đến đó, thì ăn không ngon, ngủ không yên, thấy quá hổ thẹn với Tổ tông. Quả là nghe không vào loại từ khúc nhã tụng này.”

Mọi người tưởng rằng Khang Hy sẽ rất tán thưởng, không ngờ vua lại nói lên những lời này. Hùng Tứ Lý thừa dịp bước lên tâu rằng: “Chúa thượng khoan hậu nhân từ, yêu người lấy đức, sớm có kế lớn trị nước, nếu kế lớn được thành thì sẽ mở ra cơ nghiệp muôn đời cho đế quốc Đại Thanh ta. Nay Chúa thượng không muốn nghe nhạc tụng thánh, tức là khích lệ bọn thần hạ không quên cảnh nạn nước khổ dân. Các vị ngồi đây đều là kẻ sĩ được Thánh thượng tin dựa, là cánh tay đắc lực triều Đại Thanh, tất sẽ thấu hiểu thánh ý, hăm hở nhận lệnh.” Hùng Tứ Lý tuy không nói nhiều, nhưng điểm đúng huyệt, mọi người vừa xúc động vừa cảm ơn, nước mắt cứ trào ra.

Ngụy Đông Đình cũng bị kích động mạnh, đứng thẳng lên, cao giọng nói: “Đông Đình xin dâng một bài trường ca.”

“Hát lên cho Trẫm nghe!” Khang Hy bảo, “Minh Châu thổi sáo đệm!”

Minh Châu “dạ!” một tiếng, lấy ra ống sáo trúc thổi vi vu, một không khí buồn thương bao trùm cả không gian. Ngụy Đồng Đình hát:

Thôn Long Các, thành đông huyện Lãi, có một người phụ nữ tài năng.

Mất đi để lại cháu con, một đàn đông đúc sống còn nhờ đâu?

Mọi người cứ ngỡ là Ngụy Đông Đình rút kiếm múa và ca lên khẳng khái, ai hay giọng anh buồn thảm, còn điệu hát cổ lỗ làm ai cũng ngạc nhiên. Khang Hy nghiêng người hỏi Hùng Tứ Lý, “có phải hơi tục chăng?” Hùng Tứ Lý nói trang nghiêm: “Đây là thể dân ca, cổ phong cách điệu.” Khang Hy im lặng nghe Ngụy Đông Đình hát tiếp:

Nhờ vào số ruộng vườn khoai sắn, bỗng năm tên cưỡi ngựa cờ vàng.

Hung hăng quá thể ngang tàng, chiếm nhà khoanh ruộng ngỡ ngàng xóm thôn.

Bảo phải đi không gì được tiếc! Gây kinh hoàng rên xiết khắp nơi.

Bồng con không biết đi đâu, chỉ đành tựa cửa kêu trời khóc than!

Làng xóm nghẹn không đường khuyên giải, nói chi người, đá cũng buồn thương.

Hát tới đây đã nghe có tiếng sụt sùi. Mục Tử Húc, “Lừa bướng” từ Quan Đông đến đây, trên đường đã chứng kiến bao cảnh tình như thế này, cho dù con tim sắt đá cũng phải động lòng. Minh Châu nghĩ tới thân thế nhà mình, đã sớm chảy nước mắt. Sử Long Bưu cũng đau trong lòng, cúi đầu thở dài. Khang Hy nghĩ tới sự ngang ngược của cờ vàng Tương, lửa giận lóe lên trong ánh mắt, nhìn Ngụy Đông Đình hai mắt đầy nước mắt tiếp tục hát:

May thay trong xóm có chàng, giàu lòng tâm huyết sẵn sàng ra tay.

Chàng tuốt kiếm giã từ con, vợ, như Kinh Kha ngày trước lên đường!

Dẫu cầm dao sắc chưa từng, mà đầu rơi xuống máu văng khắp tường.

Xách đầu lâu lên quan tự thú, thảy kinh hoàng, quan bé quan to.

Than ôi!

Pháp trường kiếm sắc đầu rơi, cả quận già trẻ cúng người trượng phu!

Buồn sông núi một ly rượu nhạt, máu một dòng tưới khóc tà dương.

Tiếng ca bỗng ngừng, tiếng sáo cũng tắt, cả phòng như chết lặng. Khang Hy đứng lên nói chậm rãi: “Bài ca này của Đông Đình có việc thật, có người thật, nghĩa dân càng có nhiều. Đều là do khoanh đất loạn chính sự gây nên. Loạn chính sự không dẹp được thì dân chưa có ngày yên ổn, ruộng vườn hoang vu, kho lẫm trống trơn. Đó là tâm bệnh của Trẫm vậy. Trẫm cũng có mấy câu tiếp theo sau.” Nói xong liền ngâm rằng:

Quan lớn nhỏ khoanh tay đứng ngó, vua âu sầu ngồi giữa minh đường.

Ở trong bốn biển đều con đỏ, nghĩa hiệp đâu riêng chốn biên cương.

Túc vệ thị thần nên phải vậy, vươn vai đứng dậy giữ triều cương.

Nửa đêm đẩy gối bàng hoàng mãi, ta vẫn thở dài nỗi bốn phương.

Vua ngâm tới đây mọi người trong phòng lớn nhỏ ngắn dài nhỏ lệ, nhất tề quỳ xuống lạy tâu: “Chúng nô tài chỉ nghe theo lệnh Thánh chủ, nếu cần sai phái, dù nước sôi lửa bỏng, chết cũng chẳng từ!”