Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 31

31

Hồ Cung Sơn mấy lời giải binh đao

Ngụy Đông Đình chủ tâm tìm đối sách

Thấy trời dần tối, Ngao Bái đợi sốt ruột. Một tiệc rượu thịt thịnh soạn đã để nguội lạnh. Ban Bố Nhĩ Thiện ngồi bên bàn, lặng lẽ ngắm nhìn chiếc ly ngọc lung linh, sáng chói, Tế Thế chắp tay sau đít nhìn bức chữ viết nhỏ li ti treo trên tường, Cát Chư Cáp thì thầm riêng tư với Thái Tất Đồ đang cùng ngồi. Không ai có lòng dạ nào mà ăn tiệc.

“Các ông nghĩ thế nào?” Ngao Bái không nín chịu được, lên tiếng hỏi Ban Bố Nhĩ Thiện: “Lần này ngay cả báo tin cũng không thấy tới!”

Ban Bố Nhĩ Thiện đang đau đầu suy nghĩ, nghe Ngao Bái nói, bèn trầm ngâm, “Lão Tam hôm nay đi Bạch Vân quan, là tin lão Triệu cho hay. Lưu Kim Tiêu cửa Tây Hoa cũng thấy tận mắt, việc này không sai, có điều... cả nửa ngày không có tin tức, Lưu Kim Tiêu cũng đột nhiên không biết đi đâu, khẳng định sự tình có thay đổi.” Hắn đứng dậy, “Trời sắp tối, không như ban ngày, chúng ta sai người đi thám thính xem.” Nghe nói vậy, Tế Thế quay mặt lại. Cát Chư Cáp và Thái Tất Đồ cũng thôi nói chuyện, ngước đầu nhìn Ngao Bái.

Thái Tất Đồ thấy ánh mắt Ngao Bái cứ quay về phía mình, vội nói: “Trung đường, Mục huynh lần này đi Bạch Vân quan, đã bí mật điều động tiểu đoàn tinh nhuệ Tây Sơn và thân binh trong phủ chia nhau đi, những người này đều đã qua trăm trận cực kỳ tháo vát, cứ chờ thêm một chút xem.” Tế Thế thở ra một hơi nói: “Thắng cố nhiên là tốt, bại cho đẹp cũng không ngại gì, dù sao cũng nắm được cái thóp, sợ nhất là không thắng không bại, làm tình hình cứng ngắc, lúc đó phải tính chuyện ứng biến rồi.”

“Nói như vậy đúng đó!” Ban Bố Nhĩ Thiện xoa hai tay nói, “Thái huynh, anh là thủ trưởng bên bộ Binh, anh dùng ấn tín bộ Binh tư vấn cho phủ Thuận Thiên, lệnh cho họ đem binh tới, nói ở đó có giặc, bảo họ đi diệt giặc!”

“Không được!” Không đợi Thái Tất Đồ trả lời. Tế Thế lớn tiếng quyết đoán nói: “Thảng hoặc có người nhận ra lão Tam, chẳng hóa ra lãnh họa sao!”

Ban Bố Nhĩ Thiện cười khanh khách: “Cho dù Phủ doãn Thuận Thiên thân hành đi cũng không nhận ra. Vạn nhất có gì sai sót, cứ đổ riệt trên đầu chúng nó, chúng ta chẳng phải sạch trơn sao?” Thái Tất Đồ phản bác: “Trong tay họ có đối chiếu với bộ Binh, sau này đối chứng ra, chỉ e rơi vào đầu người anh em.” Ngao Bái cũng lắc đầu, cảm thấy Ban Bố Nhĩ Thiện trước nay sáng suốt mà ý này lại rất tồi.

Ban Bố Nhĩ Thiện không để ý, “hừm” một tiếng, nhẹ nhàng đặt chiếc ly ngọc trong tay xuống bàn nói: “Ông nói tôi ngu! Ông bảo hắn đi tiễu “giặc”, nhưng không nói ai là giặc, hắn tiễu lão Tam, coi như hắn phục vụ cho ta; nếu tiễu không được, sau này đối chứng ra, anh nói hắn “tiễu giặc cứu giá”, nhưng hắn lại “tiễu giá giúp giặc” – thì hắn lại chịu tội thay ta. Cái sách hay tiến thoái đều được, không mất chút gì cả, các ông lại khinh thường, thế chẳng lạ lắm sao?”

Trong này ý nghĩa rất rõ: Lần này anh muốn gánh vác thay tôi, nhưng lời nói gió bay, anh viết một chữ mà có thể nên việc, hà tất cần gì tôi phải tới bộ Binh làm náo động binh tướng? Nhưng ý nghĩa chính là ở trong đó, Ngao Bái suy nghĩ một lát rồi sảng khoái nói: “Rất tốt! Chúng ta cứ làm như vậy!” Rồi sai người đem giấy bút tới.

Đúng ngay lúc đó, quan coi cửa bước vào, chắp tay nói: “Bên ngoài có đại nhân Hồ Cung Sơn viện Thái y xin gặp lão gia!”

“Không gặp!” Ngao Bái phất tay, tên quan coi cửa “dạ” một tiếng rồi lui ra. Chưa được mấy bước, Ban Bố Nhĩ Thiện bỗng kêu lại, nói: “Ngươi trở lại đây!”

“Theo như tôi biết,” Ban Bố Nhĩ Thiện quay mặt nói với Ngao Bái, “người này vốn là người của Bình Tây vương, không quan hệ gì mấy với lão Tam, cũng chưa có qua lại sâu sắc với chúng ta, phẩm trật tuy thấp kém nhưng lại là người thị phi lắm điều, người thị phi, trong thời điểm thị phi, thăm viếng chỗ thị phi, ai biết có duyên cớ gì khác?” Thấy Ngao Bái gật đầu, liền bảo quản gia: “Mời ông ta vào!”

Hồ Cung Sơn tà áo dài bay theo gió, bước đi thong dong, ngang nhiên bước vào nhà, mỉm cười thỉnh an Ngao Bái, rồi vái chào đám Tế Thế ung dung tự tại đứng giữa nhà nói: “Chư vị đại nhân đều ở đây, càng tốt. Tại hạ Hồ Cung Sơn từ Bạch Vân quan tới đây, có việc quan trọng xin bẩm lại Ngao Trung đường.”

Đây là lần thứ hai Ngao Bái gặp Hồ Cung Sơn. Lần trước khám phủ Sách thấy qua một lần, chỉ biết anh võ công cao cường, nhưng chưa nói chuyện, lần này đến phải nói chuyện. Ông ngồi bên bàn tiệc chăm chú nhìn “con người thị phi” xấu tướng này, không vội vàng đáp lời ngay. Nhưng ba tiếng “Bạch Vân quan” còn nói nhiều chuyện hơn một bài văn chương hàng vạn chữ. Nó gói ghém tất cả mọi lo âu, sốt ruột và hoảng sợ không yên của ông suốt một ngày nay. Nhưng bên ngoài tỏ ra rất bình tĩnh, ông cười nhạt nói: “Đã nghe tiếng từ lâu – Ông từ Bạch Vân quan tới? Tìm tôi có việc gì?”

Hồ Cung Sơn cũng chăm chú nhìn Ngao Bái. Ông ta mặc áo dài lụa màu gụ, không đeo thắt lưng, chân mang đôi ủng bằng đoạn đen, tay cầm một chuỗi ngọc đen, có vẻ thong dong tự tại, nhưng tay kia nắm chặt thành ghế lộ rõ nỗi bất an nghiêm trọng trong lòng. Hồ Cung Sơn cười khan một tiếng, không nói gì. Ngao Bái nói: “Mấy vị này là trọng thần quốc gia, bạn của ta cả, ông có gì cứ nói hết.”

“Vậy thì được.” Hồ Cung Sơn nói lạnh lùng, giọng rất thấp nhưng hơi rất khỏe, tiếng “ồm ồm” vang vọng khắp phòng. “Đại nhân Mục Lý Mã đã bị bắt, tính mạng chỉ trong sớm tối!” Chỉ một câu này đã làm cho Tế Thế, Cát Chư Cáp, Thái Tất Đồ, mọi người trong phòng nghe như tiếng sét bên tai, người nào mặt cũng trắng bệch. Ban Bố Nhĩ Thiện tự cho mình mỗi khi gặp việc đại sự chưa hề bối rối kinh hoàng, công phu rèn luyện rất sâu, nhưng nghe câu này cũng giật mình, tay chân hơi run run.

Ngao Bái ban đầu sững sờ, sau cười ha hả: “Mục Lý Mã là thị vệ ngự tiền mang đao, võ nghệ cao cường, hôm nay dẫn trọng binh đi vây tiễu mấy tên giặc cỏ, có lý gì mà bó tay? Ông là một cung phụng viện Thái y nhỏ bé, mới lục phẩm, mà dám tới giở trò quỷ trước mặt lão phu!” Hồ Cung Sơn không đợi hắn nói hết, lên tiếng nói tiếp: “Đây không phải miếu đường triều đình, cũng không phải nghi lễ công đường, hôm nay tôi ngài đều gặp nhau trong bộ thường phục, nói chuyện ngang bằng. Nếu giờ này còn nói đến nhất phẩm lục phẩm, há chẳng sợ người đời chê cười? Bây giờ thấy các ngài sơn hào hải vị đều không lòng nào ăn uống, rượu ngon thức quý cũng không nuốt nổi, mặt đầy lo âu, lại còn nói gì “võ nghệ cao cường”, há chẳng làm trò cười cho thiên hạ sao?”

“Cả gan!” Cát Chư Cáp thấy anh là một quan viên bậc thấp mà dám vô lễ với Ngao Trung đường, nên cũng tức giận quát: “Có ai cần mi tới báo tin đâu? Mi trở về nhiệm sở đi!”

“Ông là ai?” Hồ Cung Sơn hỏi vẻ khiêu khích, “Hôm nay người tại hạ cần gặp là Ngao Trung đường, kiến thức cạn cợt như anh, ta không chấp! Hoằng Quang triều Minh, Đa Nhĩ Cổn, Ngô Tam Quế triều Thanh, tại hạ đều có gặp mấy lần, chỉ chưa gặp cái mặt mốc của anh!” Ba người vừa kể, ngoài Ngô Tam Quế địa vị tương đương Ngao Bái ra, hai vị kia thanh danh hiển hách, không ai ngồi đây so được, mà Hồ Cung Sơn cứ nói ra không chút e dè, làm sao cả phòng không kinh hồn thất sắc! Cát Chư Cáp càng cực kỳ thẹn thùng khó coi.

Hồ Cung Sơn thấy không ai đối đáp với mình nữa, bèn tự đến trước bàn, cầm đôi đũa, gắp miếng “óc công” trong đĩa “Chim công giang cánh” cho vào mồm, rồi ngồi lên ghế, nhai nhồm nhoàm, như trong chỗ không người, khen: “Ngon, vị này khách xa nếm trước! Làm sao Ngao Trung đường không nhường cho lão Hồ tôi?”

Ngao Bái và Ban Bố Nhĩ Thiện bốn mắt nhìn nhau một chặp, Ngao Bái rót một chung lớn “Ngọc hồ xuân” đưa cho Hồ Cung Sơn, cười nói: “Hay! Có phong độ sĩ phu! Không nhìn thấy anh là thất kính!” Hồ Cung Sơn không để ý, tiếp chung rượu, một hơi uống cạn, cười nói: “Ngao Trung đường không có thứ tiểu khí tầm thường!” Nói xong, thuận tay vất miếng xương xuống đất, Ngao Bái chú ý nhìn, sàn gạch xanh lát chắc chắn, chỗ bốn viên gạch nối nhau bị nứt ra, bốn viên gạch đều không ở nguyên chỗ cũ. Ngao Bái bất giác thấy sợ hãi, cười nói: “Tiên sinh nội ngoại công đều tuyệt. Thực lòng kính phục.” Ban Bố Nhĩ Thiện cũng xem rồi nói: “Hồ tiên sinh, chúng ta quen nhau rồi còn gì!” Vừa nói vừa đến mời một ly. Hồ Cung Sơn đối với người đến không từ chối, bưng ly nốc cạn.

“Hồ tiên sinh,” Ngao Bái thấy anh rượu đã ba ly, mở miệng nói, “không phải ta không tin anh, xá đệ Mục Lý Mã không phải loại người ăn hại, đem binh ngàn người vây một cái quán nhỏ, làm sao vô ý để bị bắt?”

“Thử một thời, bỉ một thời, việc đi tiễu “giặc” mà để bị giặc bắt xưa nay nhiều lắm!” Hồ Cung Sơn lấy khăn bàn lau miệng và tay, rút trong túi ra bức thư lục thấy trong người tên lính đưa ra, vẫn hào hứng gắp những món ngon trên bàn ăn ngon lành, miệng nói liến thoắng: “Có cả cá và tay gấu, tôi quả gặp may.” Vừa nói vừa nhìn Cát Chư Cáp. Cát Chư Cáp coi khinh hạng người này bèn ngoảnh mặt tránh.

Ngao Bái lại bên đèn đọc bức thư, sắc mặt càng lộ vẻ nghiêm trọng. Ban Bố Nhĩ Thiện cũng bước tới, xem kỹ, quả thật là thư Nạp Mô tự tay viết. Trong thư nói có một lão già võ công cực mạnh đã bị loạn tên bắn chết, chú ba Mục Lý Mã bị lâm vào tay giặc, nhưng không nói gì đến “lão Tam” có bị vây ở bên trong.

“Hồ tiên sinh,” Ban Bố Nhĩ Thiện ánh mắt sáng lên, “theo anh, người bị vây trên đảo có những ai?”

Hồ Cung Sơn vừa ăn vừa trả lời thoải mái: “Tôi thường đến quán Sơn Cô, mấy người tôi đều quen mặt, chủ quán họ Hà, còn có mấy người làm thuê, rất an phận, “giặc” mà các ông tiễu e không lọt vào lưới.”

Ngao Bái nói: “Vậy tại sao họ không giết chú em Mục Lý Mã?” Đây quả là một lời điểm mắt lợi hại, nói lời này, mắt Ngao Bái phát ra những tia hung ác. Hắn cho rằng, Khang Hy nếu không có trên đảo, mọi người rất có khả năng giết chết Mục Lý Mã lấy đường thoát vòng vây. Còn bây giờ họ tuy không trốn, cũng không giết người, thì quả là điểm đáng ngờ, không hỏi rõ điểm này thì không thể quyết đoán điều gì.

“Mục đại nhân đáng giá mà!” Hồ Cung Sơn miệng đầy mỡ, ngước đầu nhìn Ngao Bái. “Muốn dùng ông ta đổi lấy Minh Châu trong tay đại nhân.”

Lại là một lời kinh động, chung quanh bỗng im lặng như tờ. Tế Thế mặt tối sầm nói: “Tiên sinh quả là cái gì cũng biết, dám hỏi ngài là người thế nào, ai sai ngài tới đây?”

“Tiểu Ngụy dưới trướng lão Tam nhờ tôi đến đây làm giúp việc này!” Hồ Cung Sơn không chút do dự cao giọng trả lời.

“Lão Tam!” Ngao Bái nôn nóng hỏi, “Lão Tam nào?”

“Trung đường, ngài đã biết rõ mà còn hỏi.” Hồ Cung Sơn nhẩn nha cười nói: “Lão Tam, là em của lão Đại, lão Nhị, bên ngoài cửa còn có một “lão Tứ” – anh ta không muốn vào, đang đợi bên ngoài – chỉ có Trung đường và chư vị ngày nào cũng gọi, lão Hồ này gọi một tiếng thì đã sao? Tiểu Ngụy các người đều quen, không cần phải nhiều lời?”

Nghe lời này, mấy người nhìn nhau, không biết đối đáp thế nào. Cát Chư Cáp không nhịn được, nhảy phóc lên, nắm cổ áo Hồ Cung Sơn hỏi: “Do đâu anh biết những tin này, anh là ai?”

Hồ Cung Sơn đâu có coi hắn ra gì, thuận tay bấm vào huyệt gối chân trái, Cát Chư Cáp kêu lên một tiếng quỳ hai gối xuống. Hồ Cung Sơn vội đỡ dậy: “Ôi chao! Đại nhân chỉ hỏi một câu mà phải làm đại lễ như vậy, thật không dám! Hồ Cung Sơn bất tài, cung phụng lục phẩm viện Thái y làm sao dám nhận?” Rồi vỗ nhẹ vào vai hắn một cái giải huyệt. Tế Thế thấy Cát Chư Cáp chảy nước mắt, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, vội giả vờ hỏi để lấp liếm. Cát Chư Cáp xấu hổ, quay người bước đi.

Ban Bố Nhĩ Thiện biết có hỏi nữa cũng chẳng biết thêm chuyện gì, liền cười nói: “Theo ý tiên sinh, việc này nên kết thúc ra sao?”

“Ông là người thông minh, há chẳng biết “người tới nói thị phi, tức là người thị phi”? Minh Châu giao cho tôi, trả lại cho ông Mục đại nhân.”

“Minh Châu chết rồi.” Ban Bố Nhĩ Thiện đổi sắc mặt, lạnh lùng nói.

“Vậy thì Mục đại nhân cũng không sống được.” Hồ Cung Sơn đứng lên vái chào, nói, “Cũng được, lão Tư còn đợi tôi ngoài cửa, tôi đi đây.”

“Đâu có, đâu có!” Ban Bố Nhĩ Thiện vội vàng ngăn lại, “Nói đùa với tiên sinh thôi, lấy Minh Châu đổi Mục đại nhân, làm gì có chuyện không đổi?”

“Tôi vẫn thường biết Ngao Trung đường, Ban đại nhân thông minh tuyệt thế, đâu có làm chuyện ngu muội cho Minh Châu chết” Hồ Cung Sơn lại ngồi xuống. “Chúng ta ở đây cứ vòng vèo thử tài mưu trí, để cho Mục đại nhân chịu tội bên đó, chi bằng bàn cách làm có hay hơn không?”

“Minh Châu giao ông, tôi không yên tâm, vậy làm sao đây?” Ngao Bái suy nghĩ hồi lâu mới mở miệng.

Hồ Cung Sơn cười khanh khách, nghe như tiếng chim kêu đêm, trong phòng ai cũng nổi da gà. “Đã nghe tiếng Ngao Trung đường là một đại thần thời trị, gian hùng thời loạn, không đúng như vậy!” Tiếng cười ngừng đột ngột, “Vậy xin Trung đường chọn một người giỏi áp giải Minh Châu, lão Hồ đi trước, bọn họ đi sau. Nếu có biến cố, cứ cho một dao là xong, có gì là khó?” Ngao Bái và Ban Bố Nhĩ Thiện trao đổi bằng ánh mắt. Ngao Bái chớp mắt, xem như đồng ý.

Đúng lúc đó, cửa giữa sảnh hoa két một tiếng bỗng mở toạc ra. Cát Chư Cáp dẫn mười mấy tên lính, gươm giáo sáng chói, mặt mày dữ tợn đứng chặn giữa cửa, chắp hai tay nói: “Hồ tiên sinh bản lĩnh cao cường xin chỉ giáo mấy chiêu hẵng đi. Không có tiên sinh, vẫn có thể đổi lấy về Mục đại nhân!” Sự việc xảy ra không ai lường trước, người trong phòng đều đứng đực ra.

Hồ Cung Sơn cũng hơi giật mình, liền cười lớn: “Ngũ Viên từng thổi sáo xin ăn ở chợ Ngô, Hàn Tín cũng không tránh khỏi bị nhục dưới hông, anh cần gì vì cái quỳ vừa rồi mà ghi nhớ trong lòng?” Rồi hai tay chắp sau lưng, bước dài thoải mái, gạch dưới chân vỡ ra từng viên từng viên.

Ngao Bái biết Cát Chư Cáp không phải là đối thủ của anh, cho dù mọi người cùng tấn công, cũng chưa chắc giữ được anh, chi bằng thể theo tình người, bèn quát to một tiếng: “Lộn xộn! Hồ tiên sinh là khách của ta, lui ra!”

Ban Bố Nhĩ Thiện cảm thấy mặt Cát Chư Cáp rất khó chịu, đảo mắt nảy ra một ý, cười nói: “Anh Cát, cần gì so đo được thất một thời, thì để anh và mấy người này đưa Minh Châu đi làm công chuyện nhé!”

“Được!” Hồ Cung Sơn nhìn Ngao Bái cười, “Ban đại nhân nói đúng, người quân tử báo thù mười năm không muộn, Cát đại nhân nên nghĩ kỹ!” Ngao Bái phất tay: “Cứ làm như vậy!”

Việc thế là định đoạt xong, tiếp đến là chuyện xảy ra trên đảo giữa hồ như chúng ta đã biết. Ở đó Cát Chư Cáp ra lệnh đồng loạt bắn tên vào Hồ Cung Sơn, cũng không phải cố ý phản bội lời hứa, chỉ vì hắn không phải là “quân tử”, không đợi được tới “mười năm”; cũng không phải như Hàn Tín, nuốt không trôi nỗi uất ức xảy ra trong phủ Ngao Bái.

Mãi đến cuối canh hai, đám Ngụy Đông Đình mới xử lý xong hậu sự vụ quán Sơn Cô.

Sau khi quân Mục Lý Mã lui binh mới bắt tay vớt xác Sử Long Bưu – Trừ mặt ra, cả người ông không còn chỗ nào nguyên vẹn, hai tay vẫn nắm chặt một nắm tên, xem ra dưới nước ông vẫn còn chiến đấu... Mục Tử Húc yên lặng quỳ dưới đất, cẩn thận rút ra từng mũi tên trên người ông. Ngũ Thứ Hữu hầu như mất hết tri giác, cùng mọi người đứng đực ra nhìn.

Sử Long Bưu nét mặt thản nhiên nằm bất động trên phiến đá bên hồ, lúc này mọi người biết là ông không bao giờ tỉnh lại. Mục Tử Húc cùng “Lừa bướng” và Tư Hách quỳ xuống làm lễ từ biệt thầy, Hà Quế Trụ gào to kêu khóc, nước mắt ròng ròng. Tiếng khóc làm “Lừa bướng” như bừng tỉnh mộng, khóc gào: “Sư phụ, lỗi tại con! Con tới tiếp ứng ngay thì thầy đâu đến nỗi...” Mục Tử Húc, Tư Hách lòng như dao cắt cũng nằm xuống đất khóc gào. Minh Châu bị thương nặng chưa lành, nằm trên cáng lặng lẽ rơi lệ. Ngụy Đông Đình nhớ lại cảnh tượng từ lúc gặp ở bờ Tây Hà đến mấy năm chung sống gần đây, mặt cũng tràn nước mắt. Ngũ Thứ Hữu nuốt nước mắt quỳ lạy nói: “Chú, chú... chú đi lần này không trở về nữa sao?” Nói xong cũng che mặt mà khóc.

Hồi lâu, Ngụy Đông Đình mới an ủi mọi người: “Các anh em, trượng phu không để nước mắt rơi dễ dàng, đợi giết hết giặc, chúng ta làm lễ tế ông cụ...” Mọi người mới ngừng than khóc.

Ngụy Đông Đình chỉ huy quân lính đào mộ chôn Sử Long Bưu, rồi hộ tống Ngũ Thứ Hữu, Hà Quế Trụ, về thành ngay trong đêm. Trên đường mọi người yên lặng không ai chuyện trò. Vùng này đã trở nên hoang vắng không người từ sau khi Lý Tự Thành mấy lần đánh nhau với lính Thanh và triều đình Minh, dưới ánh sao chỉ thấy gò đống tối đen cùng với nhà cửa nhấp nhô như đang nhảy múa. Tiếng chuông chùa từ xa xăm vọng về, càng tăng thêm nỗi thê lương trong lòng người. Vó ngựa đạp trên sương dày lặng lẽ tiến lên. Ngũ Thứ Hữu tay cầm cương, ngước nhìn đầy trời sao lạnh, miệng khẽ ngâm:

Chợ Yến khách xa rầu rĩ hát,

Uống tràn không hỏi biết mua đâu.

Buốt sương áo vải trời sao lạnh,

Hà lạc gió lùa ấm dòng sâu,

Nhằm lúc đẩy song nhìn cung nguyệt,

Mây đen trùm khắp cõi Hàn châu.

Thư sinh đang khúc ca ai điếu,

Không ngựa không nàng báo đáp đâu?

Giọng ngâm trầm lắng, câu thơ sôi sục, làm dấy lên ở mọi người ngọn triều tình cảm. Lòng Ngụy Đông Đình nóng lên, muốn nói gì, nhưng không nói ra.

Về tới nơi ở của Ngụy Đông Đình tại cầu Hổ Phường, mọi người mới thở phào. Nghĩ tới cuộc chiến ác liệt ngày hôm nay chẳng khác gì một giấc mơ, Ngụy Đông Đình biết mọi người đều rất mệt, nên không đề ra chuyện ăn uống, chỉ phân chia chỗ ngủ cho mọi người. Đến khi tìm Hồ Cung Sơn thì anh ta đã đi rồi. Ngụy Đông Đình e Ngũ Thứ Hữu thư sinh yếu đuối còn sợ sau cơn kinh động, nên mời ông lên ở tại phòng mình, bản thân nằm trên chiếc ghế dài gian ngoài canh giữ. Bỗng lão gác cửa bước vào, nói khẽ với Ngụy Đông Đình: “Sách đại nhân, Hùng đại nhân đều tới rồi, đang đợi ở phòng khách!” Ngụy Đông Đình nhìn cánh cửa phòng trong, nghĩ là Ngũ Thứ Hữu đã đi nghỉ, anh không mặc áo dài, chỉ khoác chiếc áo ngoài màu đỏ, nịt thắt lưng đen, vội vàng đi ra.

Hùng Tứ Lý ngồi trên ghế nhìn một bức tranh chữ, thấy Ngụy Đông Đình bước vào, chỉ nghiêng mình gật đầu cười nói: “Hôm nay làm liên lụy đến anh, hầu như bị bắt hỏi cung!” Ngụy Đông Đình cũng cười nói: “Cùng đại nhân ngồi nhà giam cũng là chuyện lý thú.” Sách Ngạch Đồ thấy Ngụy Đông Đình ra chuẩn bị vấn an, vội đứng lên kéo dậy: “Hổ Thần, không cần phải vậy!” Nói xong ba người cùng ngồi nói chuyện.

“Hổ Thần, hôm nay anh bị mệt, lẽ ra không tới quấy anh.” Hùng Tứ Lý cầm bức tranh chữ cuốn lại, vẻ mặt rất nghiêm túc, “nhưng ngày mai Thánh thượng nhất định triệu kiến, nếu hỏi việc Bạch Vân quan, thì nên nói thế nào?”

“Việc Bạch Vân quan nên bí mật không nên truyền ra.” Ngụy Đông Đình cúi đầu suy nghĩ một lát rồi nói: “Trước mắt Hoàng thượng không nên chống lại Ngao Bái. Ngu ý cho rằng tốt nhất là không gặp. Đã không gặp thì không thể triệu kiến nhị vị.”

“Ý kiến đó rất đúng,” Sách Ngạch Đồ nhíu mày, “sợ là Hoàng thượng không tự kiềm chế, triệu kiến Ngao Bái với chúng ta, thì không dễ giải quyết.” Ngụy Đông Đình nói: “Tôi nghĩ Hoàng thượng không gặp ai hết. Hoàng thượng đang có tiến bộ nhiều về việc học, bây giờ ngày nào cũng nói hai chữ “thận độc”, đâu chịu hái trái dưa chưa chín?”

Hùng Tứ Lý hiểu ý gật đầu nói: “Tuy nói vậy, anh cũng không được sơ ý.” Ngụy Đông Đình đáp: “Vâng. Có điều. Hùng đại nhân vừa hỏi, tôi nảy ra hai ý.”

“Hả?” Sách Ngạch Đồ hào hứng, lấy nắp ly gạt bã trà hớp một ngụm hỏi, “Hai ý thế nào?”

“Sau khi phủ Sách bị khám xét, Ngũ tiên sinh tránh lên ở Bạch Vân quan. Bạch Vân quan hôm nay bị cướp sạch, đủ thấy lòng dạ phản nghịch của Ngao Bái nôn nóng không đợi lâu được.” Hai vị Sách, Hùng gật đầu lia lịa, Ngụy Đông Đình nói tiếp chắc như cua gạch: “Hai lần đột kích đều nói là truy tù bắt giặc, thực ra đều là nại cớ nói lảng, cũng không phải vì Ngụy Đông Đình, mà thực ra đều đối phó với Hoàng thượng. Lòng soán đoạt của Ngao Bái tuy gấp rút, nhưng đều lực bất tòng tâm. Nếu có lực lượng, thì tại sao bỏ gần tìm xa? Bởi hắn không dám hạ thủ ở trong cung”

“Phải!” Hùng Tứ Lý nghe xong phấn khởi, vỗ đùi nói: “Xin nói tiếp!”

“Ý thứ hai,” Ngụy Đông Đình giơ hai ngón tay, nói tiếp, “Ngao Bái tuy tổng quản cả việc quân trong ngoài, nhưng tướng bên ngoài dám chịu chết cho hắn đều đã điều về, tổng quản phủ Nội Vụ bổ nhiệm tuân theo ý chỉ của Tôn Hoàng Thái hậu, nhất thời hắn chưa lôi kéo được, cũng không dám tùy tiện thăm dò mưu đồ đại nghịch.” Ý này quá đúng thấu tận cốt tủy, Hùng Tứ Lý và Sách Ngạch Đồ đưa mắt nhìn nhau. Ngụy Đông Đình nói tiếp: “Từ đó xem ra, hiện nay Hoàng đế trong Tử Cấm thành vẫn còn nắm đại bộ phận binh lực. Nhưng tấu sớ trong ngoài triều đình, đều nhất nhất phải qua tay Ngao Bái, điều này rất đáng lo. Lệnh vua không xuất từ cửa chính, vả lại Ngao Bái thực tế nắm quyền chủ chốt ở đại nội – phòng vệ cung Càn Thanh, Nha môn thống lĩnh bộ Binh kinh sư, Nha môn tuần phòng hắn đều nắm, bộ Binh cũng trong tay hắn, quyền lực cực lớn. Nhưng đề đốc Cửu môn, chức vụ quan trọng nhất này, lại do một ông bạn tốt của tôi đảm trách. Do vậy Hoàng thượng nếu không tùy tiện ra ngoài cung, thì nửa năm có thể bảo đảm an toàn. Nếu vẫn ra ngoài cung, thì e gặp lại chuyện nhà Sơn Cô...”

“Vậy theo ý anh, nên làm thế nào?” Hùng Tứ Lý hai tay đặt trên đầu gối, chồm tới hỏi.

Ngụy Đông Đình nói: “Theo ý tôi, Hoàng thượng không thể thường xuyên ra ngoài cung, nhưng cần thì vẫn cứ đi. Phải có cách ứng biến, khi gấp, thì học Hán Cao Tổ vào dinh Hàn Tín, đoạt được ấn tín bộ Binh sẽ hay!”

“Phải giữ Đề đốc Cửu môn không cho thay người, Ngao Bái quyết không bỏ qua việc đó.” Sách Ngạch Đồ nói xen vào, “Bây giờ Hổ Thần cũng có giao thiệp riêng khá sâu với con người kỳ lạ này, khi cần phải nói ông chống lệnh không giao ấn tín. Như vậy sẽ bất tiện cho Ngao Bái trong việc điều binh trong kinh thành.”

“Hiện nay giao thiệp còn chưa tới mức đó,” Ngụy Đông Đình cười nói, “vả lại việc trọng đại như vậy, cũng không thể để người ta làm không công!”

“Tốt!” Sách Ngạch Đồ hưng phấn nói: “Không nhận ra anh nữa, kiểu thông minh này ở đâu ra vậy – chắc cũng học được ở Ngũ Thứ Hữu?”

Nguy Đông Đình cười nói: “Ngũ tiên sinh dạy cái này làm gì! Điều ông dạy là học vấn. Nhưng từ trong học vấn có thể ngộ được cái đạo ứng biến, đó là điều Ngũ tiên sinh thường nói.”

“Dạy đúng.” Hùng Tứ Lý gật đầu lia lịa nói. Ông là nhà đạo học chính tông, có khác với ý thủ học vấn “tạp nham” của Ngũ Thứ Hữu, chỉ vì Khang Hy thích Ngũ Thứ Hữu, mấy năm nay mới chưa tới cửa bàn bạc lý luận với y. Hôm nay khác đường chung đích, kết luận ăn khớp nhau, nên rất mừng, suy nghĩ một lát rồi nói: “Còn có một việc, chưa chắc có thể dùng được nhưng cũng phải nghĩ tới. Thông Châu, Phong Đài, Mật Vân, Thiên Tân là cửa ngõ kinh sư, Hi Phong khẩu là nơi phải công để vào kinh thành, cũng phải có người tin cậy nắm giữ – những việc này, chúng tôi sẽ đi làm, chỉ cần anh làm tốt nhiệm vụ như Kình thiên bảo giá Triệu Tử Long.”

Người Mãn Châu xem Tam quốc diễn nghĩa như cuốn binh thư, người Hán thì xem như cuốn tiểu thuyết, Sách Ngạch Đồ từ nhỏ được học hành, Triệu Tử Long là người anh kính trọng. Ngụy Đông Đình tuy thấy lời nói của Hùng Tứ Lý không có ý trêu cợt, nhưng điều này dùng trong trường hợp này quả là chính xác, nên cười nói: “Sao dám không tuân lệnh!” Ba người nhìn nhau cười ha hả. Rồi bàn bạc nhiều chi tiết cụ thể, cho mãi đến gần sáng, hai người Hùng, Sách mới chia tay ra về.