Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 33

33

Ấm ngọc lạnh lùng không tình không nghĩa

Vách trước hang sau tan nát cõi lòng

Hà Quế Trụ đưa nàng Tô đi tới nhà sau. Cái nhà ba gian to như thế mà không có một cái giường, chỉ có một cái bàn dài, hai bên có mấy chiếc ghế gỗ. Trên tường treo một bức tranh lớn hổ gầm long tuyền ngay giữa nhà. Nàng Tô đang định hỏi, Hà Quế Trụ đã vén bức tranh giữa nhà, ấn vào một cái nút nào đó, nửa bên vách phía bắc chái tây chuyển động lộ ra một cánh cửa. Nguyên là một bức vách giả sơn trắng, bên trong là một lối đi. Hà Quế Trụ đi vào trước, nàng Tô bước theo sau. Đường đi bên trong nhiều ngõ ngách vòng vèo. Theo Hà Quế Trụ nói, chỉ có một lối đi được còn các lối khác đều không thông. Nàng Tô cảm thấy kỳ lạ, vừa bước theo vừa hỏi: “Nguyên trước nói nhà Tiểu Ngụy sân vườn rất cạn, sao không phải như vậy?”

“Đây mới có mươi ngày nay.” Hà Quế Trụ nói, “Ngụy gia mua hết phía sau nửa con phố, nghe nói con đường này cậu hai Ngũ dựa vào hẻm phố cũ sửa thành cái gì “bát quái mê hồn trận”. Đây chính là nơi ở của cậu hai!” Hà Quế Trụ nói xong thì đã tới trước một cái sân, lấy tay đập khuyên cửa mấy cái gọi nhỏ: “Cậu hai, mở cửa, con là Quế Trụ đây!”

Cửa mở ra, kêu “rột” một tiếng, Ngũ Thứ Hữu mặc một chiếc áo trong cũ, bên ngoài chỉ khoác một chiếc áo da không tay bằng vóc đen cúc bướm, cũng không đội mũ, đi ra mở cửa.

Thấy là nàng Tô, Ngũ Thứ Hữu nhướng mày, ánh mắt hưng phấn rực sáng một lúc rồi sảng khoái cười nói: “Hà! Là Uyển Nương! Mời vào mau!” Gọi một cậu bé mười hai, mười ba tuổi đứng trước hiên nói: “Mặc Hương! Có khách, quạt lò pha trà! Cậu bé dạ một tiếng đi vào phòng chái bên cạnh, Hà Quế Trụ cười nói: “Hai vị hãy ngồi đây, Trụ tôi xin ra trước lo việc.”

“Ngụy gia trở về báo cho tôi hay nhé!” Nàng Tô dặn dò Hà Quế Trụ, rồi quay mặt nói với Ngũ Thứ Hữu: “Nghe nói tiên sinh đang bệnh, uống thuốc gì chưa? Có mời thầy bắt mạch chưa?”

“Bệnh xoàng thôi mà, không cần mời thầy.” Ngũ Thứ Hữu cười gượng. “Y đạo của tôi tuy không cao nhưng cũng tự chữa được cho mình.”

Nói tới đây, nàng Tô muốn nói gì đó nhưng thôi, trong lòng cảm thấy có nhiều lời cần hỏi, nhưng không nói ra lời. Ngũ Thứ Hữu cũng nhìn thấy, càng cảm thấy bối rối không yên. Hai người ngồi đối mặt nhau yên lặng, một lúc tìm không ra chuyện nói, nhưng cũng cảm thấy như vậy càng hay, không nỡ phá tan bầu không khí này.

Hồi lâu, nàng Tô chợt nhớ ra, cười nói: “Long Nhi luôn lo lắng cho tiên sinh. Trời lạnh rồi, sai tôi đem tới chiếc áo. Một thời gian nữa sao xấu qua đi, cậu chủ còn mời thầy về dạy học!” Vừa nói vừa mở cái bọc lụa mềm. Mở ra là chiếc áo lông chồn màu ngọc, có viền bằng lông chồn tía, Ngũ Thứ Hữu bước tới xem thấy thật nhẹ, mềm, trơn, dày, quả là vô cùng quý giá, liền cười nói: “Tôi là một cử nhân, xuất thân áo vải, mặc thứ áo này người ta cho là ăn cắp, không bị bắt thì cũng bị mất trộm thôi!” Nàng Tô không nhịn được đã cười khanh khách. Vừa lúc cậu bé mang trà tới, Ngũ Thứ Hữu tự tay bưng cho nàng Tô một chén, rồi ngồi xuống chuyện trò.

“Uyển Nương,” Ngũ Thứ Hữu bỗng nói, “bây giờ chỉ có hai người cô và tôi, thực tình, “Long Nhi” là người như thế nào, cô có thể nói thẳng cho tôi biết không?”

“Có gì không thể nói thẳng đâu?” Nàng Tô giật mình, vội hớp một ngụm trà trấn tĩnh, rồi cười hi hi nói, “Là con trai muộn mằn của Sách lão thái quân, hơn năm mươi tuổi mới sinh được đứa con trai, nuông chiều đến mức ngậm trong miệng còn sợ mất, đặt trên tay còn sợ vỡ. Thế nào, mới ba ngày không đi học, làm thầy giáo sốt ruột rồi chăng?”

“Không” Ngũ Thứ Hữu suy nghĩ rồi nói, “mấy ngày nay, tôi vẫn cứ nghĩ, tình cảnh tôi thế này quả là kỳ lạ. Một thư sinh như tôi kẹt giữa kinh sư, làm sao Sách đại nhân lại chiếu cố kẻ sĩ đến như vậy? Đã đón đến tận phủ, nhưng đến rồi thì lại gặp mặt hiếm hoi như vậy? Cho là tôi viết văn xúc phạm Ngao Bái, thì làm sao phải ra quân ồn ào, không nể mặt Sách đại nhân mà lùng bắt tôi? Ba hồi bốn chặp cố hại tôi, vì sao không đưa tôi ra ngoài kinh sư, sao phải có bao nhiêu người liều chết cứu tôi?”

Lời chưa dứt, nàng Tô đã cười nghiêng ngửa: “Ngài ơi, quả là một người ngốc ... Ngài đã nghĩ lung tung rồi! Muốn cho công bằng, đảo ngược đảo xuôi! – Tiên sinh ở vào địa vị của người khác mà nghĩ xem, có việc nào không cần thiết? Sách đại nhân không nên chiêu hiền đãi sĩ? Ngao Bái không nên đến bắt tiên sinh? Mọi người không nên cứu tiên sinh? Vậy tôi cũng không nên ... đến thăm tiên sinh!”

“Không, không, tôi không nghĩ như vậy!” Ngũ Thứ Hữu mỗi lần nghe nàng Tô chì chiết có những lời sắc sảo, thì lúng túng không biết làm sao, “Tôi nghĩ là có phải con một nhà gia thế nào gửi đến phủ Sách học tập, đó xem ra mới hợp với thân phận của Long Nhi.”

Nàng Tô đang định phân bua bỗng nghe tiếng gõ cửa bên ngoài, và tiếng Hà Quế Trụ: “Cô Uyển, Ngụy lão gia đã về rồi, đang đợi ở đằng trước!” Ngũ Thứ Hữu vội nói: “Mời họ đến đây cùng nói chuyện!” Không nghe Hà Quế Trụ trả lời, chắc là đã đi rồi. Nàng Tô bèn nói: “Không cần, cũng không còn sớm nữa, ra phía trước xem hoa đi, tôi cũng phải đi rồi.” Nói xong uể oải đứng lên, vái chào, rồi nói khẽ: “Tiên sinh bảo trọng.” Ngũ Thứ Hữu chợt thấy buồn, gượng cười nói: “Hỏi thăm Long Nhi khỏe nhá … hẹn gặp lại!”

Quế Trụ nói “phía trước”, thực ra vẫn là “phía sau”, tại một cái sân nhỏ cách Ngũ Thứ Hữu không xa, ba người Ngụy Đông Đình, Mục Tử Húc, Tư Hách đang đợi nàng Tô. Bọn họ mới từ chỗ Đề đốc Cửu môn Ngô Lục Nhất trở về. Ở đây đều là người biết rõ ngọn ngành, không cần phải vòng vèo, chỉ cần hai ba tiếng là nói rõ mọi sự.

Qua nội tuyến trong phủ Ngao, Ngụy Đông Đình biết được tin hạch tội Phùng Minh Quân còn sớm hơn cả Khang Hy. Sáng hôm nay, ăn điểm tâm xong, Ngụy Đông Đình cùng Mục Tử Húc, Tư Hách đi gặp Ngô Lục Nhất. Từ sau khi thả Tra Y Hoàng, hai người trở thành bè bạn, rất hợp ý nhau, có một số việc có thể bàn tới cùng, chỉ còn cách một tờ giấy chưa xé toạc ra. Ngụy Đông Đình mấy lần tổn hao tâm huyết gợi ý mong “Ăn mày sắt” đề xuất phá tan ngăn cách, cái giá phải trả có thể thấp hơn một chút. Nhưng “Ăn mày sắt” tự có chương trình của mình, mỗi lần nói tới đây anh ta không có tí chất “sắt” nào, mà là tung hỏa mù, nếu không cười ngừng ở đó, thì lảng sang chuyện khác. Ngụy Đông Đình biết đối với anh ta không thể đối xử như với các anh hùng thảo khấu khác, trong lòng lại chửi thầm con người quỷ quyệt.

Hai người nói chuyện tầm phào một hồi, Ngụy Đông Đình suy đi tính lại mãi mới quyết định đột phá chính diện, lấy nắp chén gạt những lá trà nổi trên mặt chén, nói như thật như đùa:

“Anh “Ăn mày sắt” này, anh cuối cùng rồi cũng có ngày mở mặt. – Hai vị anh em này anh cũng biết rồi, tôi xin nói thẳng. – Anh được vinh thăng làm quan văn phòng nha môn tuần phòng rồi!”

“Đừng trêu tôi nữa, tôi nửa đời hào cường, nửa đời vương thần, há chịu để người khi dễ?” “Ăn mày sắt” dựa lưng vào sau ghế, cười vang thoải mái, “Hổ Thần tưởng đó là thăng tiến sao!” Ngụy Đông Đình nói: “Các hạ từ tùng tam phẩm chuyển lên chính tam phẩm, sao không gọi là thăng tiến?”

“Đúng vậy!” “Ăn mày sắt” bỗng đổi giọng. “Lên nha môn tuần phòng ngồi cũng hay. Lại thêm, đó cũng là Thánh thượng thương tình, lẽ nào tôi không chịu nhận thăng chức?”

“Ăn mày sắt” cố làm ra vẻ hồ đồ, lúc thì nói đông, lúc thì nói tây, Ngụy Đông Đình quan hệ với anh ta, đau đầu nhất chính là ở điểm này. Bây giờ nghe anh ta nói vậy, suy nghĩ một chốc nói:

“Đáng tiếc đây không phải là ơn huệ của Hoàng thượng. Anh là anh hùng cái thế, lại không thấy được cái bí mật bên trong, cũng thật đáng tiếc!”

“Thế nào?” “Ăn mày sắt” chồm người lên trước hỏi, gân xanh trên thái dương bỗng giật giật.

“Chẳng thế nào cả, Trung đường muốn làm lành với anh, xem anh như quốc sĩ, đương nhiên anh phải báo đáp với tư cách là quốc sĩ!” Ngụy Đông Đình thấy anh ta thở phì phì, nên hạ bớt mức công kích, thoải mái nằm dựa ngửa ra sau, thưởng thức hiệu quả ngón đòn của mình.

“Hổ Thần,” khẩu khí “Ăn mày sắt” mềm mỏng hơn, “anh thật là tài ba, chẳng trách Tra tiên sinh cứ khen anh. Tôi cũng không muốn vòng vo nữa, thà làm đầu gà hơn làm đuôi voi, tôi đi làm cái anh quan văn phòng để làm gì?”

Ngụy Đông Đình cười thầm: “Anh “Ăn mày sắt”, không thuyên chuyển chức vị của anh, chưa chắc là giáng chức anh, thăng tiến anh cũng chưa chắc đã là yêu anh. Anh thông minh một thời, phải suy nghĩ cho rõ ràng!”

“Cái này tôi biết!” Ngô Lục Nhất huơ tay nói, “Muốn thu nhận anh, trước hết phải chơi với anh mà! Tôi chỉ làm đề đốc Cửu môn thôi!”

Rất hài lòng với câu trả lời này, nàng Tô nghe xong hơi suy nghĩ, nói: “Sự việc cũng tiến triển khá tốt, chỉ trong tay anh không có bằng chứng, kết cục cũng chưa biết ra sao. – Vậy cũng được, lập được công này, thăng lên một bậc cũng đáng. Trở về nói Hoàng thượng hạ một mật chiếu, đến lúc đó anh đưa tới là được. Bây giờ ông ta nên kín tiếng một chút, trước hãy nấn ná chưa giao ấn tín. Nhìn thế trận này phát động lên cũng nhanh thôi!”

Nếu nàng Tô không đến gặp Ngụy Đông Đình trước, mà đến lầu Gia Hưng gặp cô Thúy trước thì kết quả sẽ khác đi. Nhưng bây giờ muộn rồi. Nàng Tô xuống xe cảm thấy khác thường, ngoài cửa có một đám người xúm xít ghé tai nhau bàn luận việc gì đó, bà đứng quầy lầu Gia Hưng – chủ quán rượu dưới lầu đang khóc lóc, miệng lẩm bẩm những gì không nghe rõ.

Nàng Tô đã nghe ra là có người chết, đầu óc cứ ù ù, không sợ đông người, nàng chen vào trong quán, vội vã chạy lên lầu tìm cô Thúy. Ngoài đường, tiểu thái giám đánh xe vừa nói vừa dọa mọi người: “Các ông bà, Hòa Thạc Thân vương Cách Cách đến thăm cô Thúy, vương gia tôi một chút cũng sẽ tới, các người không việc gì xin tản đi thôi!” Người Bắc Kinh vốn thích xem cảnh ồn ào, nghe nói Vương gia gia đến, sợ là có cội nguồn gì thật với Vương gia, lỡ bị đòn roi ngã xuống, đưa vào ngục Thần miếu ngồi một đêm thì chẳng bõ. Nghe một hồi chẳng có tin gì, bèn từ từ tản đi.

Nàng Tô lên lầu thấy mấy người đàn bà đang ngồi trong phòng làm ngựa giấy, dán kiệu giấy, bày biện đồ cúng tế, thấy nàng bước vào vái chào rồi hỏi nhỏ: “Phải tới thăm cô Thúy không?”, nàng Tô gật đầu. Những người này nói: “Cô... đã thành tiên rồi, chúng tôi là những người do cô chuộc ra, đang giúp lo liệu...” Rồi chỉ cho vào.

Nàng Tô bước vào cửa nhìn, hoảng kinh, hai chân như dính trên đất, không nhúc nhích – trong phòng rèm màn trắng muốt, khói hương nghi ngút, trên chiếc bàn giữa phòng có một bài vị, đề chữ: Hải gian liệt nữ NGÔ THỊ THU NGUYỆT chi linh vị

Bên cạnh là hai câu liền, trên loang lổ vết máu, vế trên là:

Đã không có trung, thì đâu có hiếu? Mộng đến Vân Đài, phụng tử nghiêm.

Vế dưới là:

Khó là giữ tiết, đâu khó hy sinh? Hồn về địa phủ nhớ Trường An!

Bên cạnh một hàng chữ nhỏ, viết: Thúy Cô khóc lấy máu tự phúng điếu.

Càng đáng kinh ngạc là cô Thúy mặc phục trang lễ hội, mày đen, má phấn môi hồng, đôi mắt hơi nhắm lại, miệng hơi mỉm cười, còn ngồi nghiêm chỉnh trên chiếc ghế phía sau bài vị! Nàng Tô run lẩy bẩy bước tới nhìn, sắc mặt cô Thúy vẫn như lúc sống, chỉ sáu mạch không có, hơi thở không còn, thật là “Thân như năm trống ngậm trăng núi, mệnh tựa ba canh dầu сạn khô!”

Một hồi lâu, nàng Tô như chìm trong ác mộng. Dù thế nào nàng cũng không tin được xác người con gái trước mặt mình, mặc trang phục lễ hội, đã nuốt thủy ngân, hương hồn phiêu diêu, lại chính là người thiếu phụ sống động mới nửa tháng trước đây, đã chặn xe cứu giá, ăn nói cứng cỏi, vì sao phải chết?

Sững sờ trên lầu vắng, đứng trước lễ phúng điếu kỳ lạ, nàng Tô bỗng thấy nổi lên một cảm giác kinh sợ ớn thấu xương, muốn bỏ đi nhưng có một sức hút kỳ lạ giữ nàng không muốn rời xa.

“Chị cả,” Người đàn bà trung niên nhìn thấy vẻ mặt nghiêm trang kinh sợ của nàng liền quỳ xuống làm lễ, hỏi, “xin hỏi, chị là thế nào với cô Thúy?”

Nàng Tô lanh trí đáp: “Minh Châu là anh tôi, anh bệnh không đến được, sai tôi tới thăm, không ngờ lại xảy ra việc này...” Người đàn bà nói: “Chị cả đã tới đây thì nhờ chị cả chuyển hộ bức thư này cho Minh lão gia.” Nói xong, hai tay run rẩy móc trong túi ra một cái thiệp viết: “Cô Thúy trước lúc lâm chung, bảo tôi đưa cho Minh lão gia...” Nàng Tô cầm lấy xem thì là một phong bì thường thấy ngoài phố, chỉ ở giữa có từng hàng chữ viết nghiêm chỉnh: Anh Minh Châu nhận thư, phía dưới đề: Tâm thư gan ruột của Thúy Cô. Nàng nghẹn ngào hỏi: “Việc này quá bất ngờ, sao đang yên lành thế này mà...”

Người đàn bà rút trong lưng ra chiếc khăn lụa trắng lau nước mắt nói: “Tôi cũng không rõ lắm, bà cụ dưới lầu nói, hôm qua, Hồ lão gia mặc quần áo đạo sĩ tới, hai người cãi nhau đến nửa đêm, Hồ lão gia tức giận bỏ đi. Cô Thúy khóc hết nửa đêm, hôm nay đưa thiệp mời chị em ca kỹ chúng tôi tới, ai hay uống thủy ngân, ngồi trên ghế không động đậy ... chỉ đưa cho tôi bức thư này, cười nói: “Gửi Minh Châu...” rồi không nói được gì nữa...” Nói tới đây, người đàn bà đã khóc thành tiếng.

Lòng đầy buồn khổ, nàng Tô rời lầu Gia Hưng trở về đại nội, đã tới giờ Thân. Dưới ánh tà dương đỏ rực, nàng vội vàng qua cửa Long Tông đi thẳng vào điện Dưỡng Tâm. Cung nữ trực ban thấy nàng trở về, vội ra đón nói: “Đức Vạn tuế đã tới thỉnh an cung Từ Ninh rồi, để giành cho chị mấy cái bánh bao rau quyền, nói chị không ăn chất tanh có dầu, đặc biệt thay đổi khẩu vị cho chị!” Nàng Tô giật mình, mới hay mình đã về tới Tử Cấm thành, người bủn rủn thả mình trên sạp.

Nàng cẩn thận lấy phong thư ra, thấy thư không dán, rõ là không sợ người khác đọc, liền quay người vào trong, dưới ánh sáng lờ mờ, rút bức thư ra, đọc:

Minh Châu huynh đài giám: Tiếng quyên, mưa trong giấc mộng, từ đây vĩnh biệt với anh ở cõi đời này! Đường về diệu vợi, việc chưa hề biết tới. Duy bèo đạt hoa rơi, hồn rời dương liễu, trăng tàn trên lầu, gởi hình ảnh đẹp ở túc hạ. Em không phải người nhẹ cái sống, nặng cái chết, tiến lui đều khó, đã hết chỗ do dự. Tâm lực mệt mỏi, huyết lệ đâu chịu chảy không! Đã không thể giữ trọn chí cha, lại không thể cùng anh chung mối thù giặc, đêm dài than thở, bồi hồi vô kể, quyết lấy việc tự giết mình để báo đáp vua trước chủ sau. Cõi âm mù mịt hoặc thấy thương tình, kiếp sau xin lại báo ơn anh! Gửi thêm mấy bài thơ thô thiển, đều là tâm sự đời em, một mình dưới trăng nên vần. Người sắp chết, tiếng cũng yếu đi. Không phải rên rỉ vô cớ, chỉ mong báo đáp lòng thương mến của anh thôi.

Thúy Cô huyết lệ viết ở lầu Gia Hưng.

Sau bức thư có kèm theo một tờ giấy hoa tiên, trên tờ giấy mỏng viết dày đặc bốn bài thơ tứ tuyệt chữ nhỏ đều tăm tắp, tình cảm ai oán đến não lòng.

Nàng Tô xem xong thơ, thút thít khóc ròng, bỗng nghe tiếng giày sau lưng, vội gạt lệ đứng lên, thì Khang Hy đã cười bước lại gần nói: “Bữa nay mệt lắm rồi phải! Mệt cũng nên ra ngoài cho thư thái, cứ nằm mãi sinh bệnh đấy – Ngươi cầm gì trong tay, chắc không phải Ngũ tiên sinh viết chứ?”

Lúc này nàng Tô mới nghĩ tới, bức thư tuyệt mệnh của cô Thúy vẫn còn cầm trong tay, vội cười lấp liếm: “Cũng không có gì, người viết đùa chơi thôi, nô tài thấy được cầm xem.”

“Đã không phải Ngũ tiên sinh viết cho ngươi.” Khang Hy giơ tay ra nói, “ngại gì không cho Trẫm xem với.” Nàng Tô không biết làm sao, đành hai tay dâng lên, nói nhỏ trong mồm: “Đức Vạn tuế, cô Thúy chết rồi!”

Sắc mặt Khang Hy bỗng tái nhợt, vội giật lấy bức thư xem vội vàng, sắc mặt càng trắng bệch, run run đưa trả thư cho nàng Tô, hỏi: “Cô ... cô ấy bây giờ thế nào?”

Nàng Tô vừa khóc vừa kể lại một lượt tỉ mỉ từng cảnh nàng vừa chứng kiến, Khang Hy lặng lẽ lắng nghe, gật đầu than rằng: “Đáng tiếc, đáng tiếc – ngươi biết không? Vua trước là tiền Minh, “hậu chủ” là Trẫm, giữa hai người không cách nào chọn được, lại thêm tình yêu quấy rầy, làm cho thần hồn không yên, ngũ tạng tan nát, đành phải đi vào con đường này.”

“Nhưng cũng không nên đi con đường tuyệt mệnh!” Nàng Tô lau khô nước mắt nói: “Đi tu cũng được mà! Đức Vạn tuế chỉ cho cô một cái chùa cho cô tu hành, chẳng tốt hơn sao?”

Khang Hy gượng cười nói: “May ngươi là đệ tử nhà Phật! Chỉ có bốn việc lớn đều không, thất chí chùn lòng mới làm hòa thượng yên tịnh với cái không sáng suốt. Còn cô ấy bây giờ tâm thần bấn loạn đi tìm giải thoát! – Chỉ sợ Hồ Cung Sơn mới đi con đường ngươi nói, người này Trẫm không thể dùng, cũng là đáng tiếc.” Nói tới đây nhà vua ngừng lại, rất lâu mới tiếp, “Trẫm cũng biết sơ qua lai lịch của Hồ Cung Sơn, anh ta không giống cô Thúy, cứ tưởng nhớ nhà Minh trước, gửi gắm nỗi lòng thì ở Vân Nam, trước mặt Trẫm không nỡ ra tay. – Hai người này đều có công với Trẫm, vốn định gia ân cho, nhưng nay thì … ôi!”

Thấy Khang Hy thần sắc đau buồn, vô cùng thương cảm, nàng Tô đành bạo gan an ủi: “Chỉ trách cô bạc phước, không kịp nhận ơn Đức Vạn tuế. – Chúng ta không nói việc này nữa, hãy nói việc của mình đi. Bên Ngũ tiên sinh, Đức Vạn tuế không đến e lạc đường mất!”

“Đi thì nhất định phải đi rồi.” Khang Hy nói, “Hôm nay ngươi có gặp tiên sinh không?”

“Tiên sinh đã có lòng ngờ, nghĩ Đức Vạn tuế là thế tử một Vương gia nào đó!” Nàng Tô nghĩ đến tướng mạo Ngũ tiên sinh, gương mặt hơi nở một nụ cười, vội nói trịnh trọng, “Bên Tiểu Ngụy họ nói rồi, phía Ngô Lục Nhất xin được Đức Vạn tuế gia ân, viết cho ông ta một dụ mật.”

Lúc này Khang Hy mới thấy mình đứng đã mệt, liền ngồi xuống ghế, nói: “Vậy thì được! Chức vị này có hơi uổng cho họ Ngô, Trẫm vốn muốn đưa ông ta thế chỗ khuyết Tổng đốc Quảng Đông. – Bây giờ triều đình có việc, bảo Ngô Lục Nhất đừng sốt ruột. – Lời này không nói trước cho rõ, lòng chắc cũng suy nghĩ đó. Đi lấy bút mực đi!”

Nàng Tô quay lại điện Dưỡng Tâm, ở đó đã sẵn có nhiều bản chiếu thư, từ trong phong bì rút ra một tờ giấy trắng, cầm cả bút mực chu sa đến, hai tay mở ra, Khang Hy xắn tay áo, cầm bút chấm mực, viết liền.

Việc thay đổi chức vị cho Đề đốc Cửu môn Ngô Lục Nhất, nếu không có Trẫm tự tay viết chỉ dụ thì không được phụng chiếu.

Nghĩ một lát lại thêm một câu:

Trách ngươi Ngô Lục Nhất, Ty tuần phòng Ngũ thành, gồm nhập tiết chế, đường quan tam phẩm trở xuống, phụ tá có thiếu, tạm nghe điều động lên xuống của quan viên này, phụng hành chiếu lệnh để sau. Khâm thử.

Viết xong lấy trong túi ra một ngọc tỉ vuông, đây là bảo ấn tùy thân vua mới dùng gần đây, chuyên dùng cho chiếu chỉ mật, trên khắc bốn chữ triện: “Thể nguyên chủ nhân” – dùng mực chu đỏ đóng lên thật tươi sáng. Nàng Tô đưa hai tay ra tiếp nhận.

“Khoan!” Ngữ khí Khang Hy rất nặng nề. Nàng Tô theo dõi nhà vua trưởng thành chưa từng nghe khẩu khí đó. “Chiếu chỉ này đến tay ông ta, bên ngoài đại nội toàn là của Ngô Lục Nhất! Tính mạng Trẫm, Thái hoàng Thái hậu và cả số phận ngươi đều trong tay ông ta, không thể không thận trọng.”

Nàng Tô ban đầu ngớ ra, sau đã hiểu ra trong sự hoảng sợ, không thể không bái phục sự tinh nhạy của Khang Hy, nàng nói khẽ: “Đức Vạn tuế lo rất đúng! Có điều... làm sao bây giờ?”

“Như thế này,” Khang Hy trầm lặng hẳn, hạ thấp giọng nói, “Uyển Nương, chiếu chỉ này sẽ chuyển cho ông ta. Trẫm lại cho Tiểu Ngụy một tờ chiếu thân mật, bảo anh ta quan sát hành động của Ngô Lục Nhất rồi tùy cơ ứng biến mà đối phó kịp thời. Tiểu Ngụy tính trung hậu, không thể có hai lòng, vả lại Tôn A mẫu...” Nhà vua bỗng ngừng lại, không nói thêm gì nữa.

Không nói thêm gì, nàng Tô cũng biết rất rõ, Tôn A mẫu Khang Hy đã nắm chắc. Điều này đã rõ không có gì phải nói, nhưng nàng Tô hoàn toàn không ngờ tới, vị Hoàng đế từng lẽo đẽo theo mình chơi trò trốn tìm, vị Thiên tử trẻ tuổi thông tình đạt lý, trong sáng dễ gần này lại có lòng đa nghi sâu nặng, bất giác rùng mình. Nàng gượng cười nói: “Tiểu Ngụy chỉ mới lính bậc ba, phẩm trật e không điều khiển nổi ...”

“Đó cũng là cái khó!” Khang Hy lạnh lùng nói: “Ngày mai Trẫm ban chỉ, thăng anh ta lên thị vệ bậc nhất!”