Khang Hy Đại Đế - TẬP 1 - Chương 36

36

Ngô Lục Nhất lễ thôi nôi giết tướng

Thái Tất Đồ bị bắt nhốt chái đông

Sau mấy trận tuyết đông liên tiếp, lại đến mưa xuân liên miên. Tính đốt ngón tay, Khang Hy lên ngôi đã là năm thứ tám. Thành Bắc Kinh cây cối thưa thớt thay đổi theo tiết trời lạnh có vẻ như đang tươi tỉnh lại.

Ngũ Thứ Hữu suốt mùa đông đã nằm sạp đất ấm, bỗng đổi sang giường gỗ cảm thấy lạnh lẽo, bất giác nhớ lại một câu tục ngữ: “Người phía nam biết ăn hơn người phía bắc, người phía bắc biết ở hơn người phía nam” quả là không sai. Anh vốn muốn ngủ thêm một lúc nữa trên sạp đất ấm, nhưng Hà Quế Trụ đã đưa mấy người tới bắt đầu phá dỡ sạp, anh lại im lặng sau đó mới nói: “Các anh đừng dỡ, tôi thấy cái sạp nát này cũng tốt.” Rồi đặt trên sạp một chiếc kỷ thấp, đốt hai cây nhang, ngồi xếp bằng, lấy một quyển sách ra đọc, tiện tay ghi lời phê chú bên lề. Bỗng nghe có tiếng người gọi khẽ: “Đại ca chăm chỉ quá!” Ngũ Thứ Hữu ngước đầu nhìn, Minh Châu đã bước vào. Xem ra mùa đông này anh chàng điều dưỡng rất tốt. Sức khỏe tuy vẫn còn yếu, nhưng tinh thần đã khỏe khoắn như cũ. Anh vỗ vào bìa sạp cười nói: “Chú đến cùng với chú Hà chứ, mời ngồi.”

“Tay áo đỏ thêm hương, đêm đọc sách, giờ đây đại ca chỉ còn thiếu Uyển Nương hầu hạ thôi.” Minh Châu cười nói, vén áo ngồi xuống cạnh Ngũ Thứ Hữu. Nhướn mắt nhìn, trong tay Ngũ Thứ Hữu cầm một quyển Thái công âm phù bèn nói: “Đại ca xem sách ngày càng đủ loại, chẳng lẽ không chuẩn bị đi thi Hội, mà đem binh đi đánh giặc sao?”

Ngũ Thứ Hữu cười lắc đầu nói: “Tôi đây vừa tin Khổng Tử, vừa tin Tuân Tử. Lòng nóng lên thì theo Khổng Tử, khi lòng nguội lạnh thì theo Trang Tử. Ba mươi tư tuổi, vào trường thi ba lần, vẫn không được gì, lại bị người ta hại, hai chữ công danh ngày càng phai nhạt. Bây giờ chỉ muốn dạy cho tốt cậu học sinh này – Long Nhi cần học cái gì, ta dạy cái ấy.”

“Cậu Long Nhi này cũng lạ,” Minh Châu cười nói, “học tạp nham đủ thứ để làm gì?”

“Ta cũng không rõ lắm – Không làm quan, đọc những sách này cũng không dùng được, lẽ nào triều đình bắt chàng công tử áo vải dẫn quân xuất chinh? Cho nên chỉ chọn phê điểm những chỗ có lợi cho rèn luyện tính tình, khi giảng dạy nói thêm một ít thôi.”

“Học vấn của đại ca khỏi cần phải nói,” Minh Châu nghĩ thầm, “làm thầy vua mấy năm nay mà ngay cả đến một số việc vặt vãnh cũng không biết được, quả thật là ngốc.” Thấy Minh Châu mỉm cười không nói, Ngũ Thứ Hữu liền thu sách lại, nói một cách nghiêm túc: “Minh Châu, người anh em đang nghĩ gì vậy? Nhớ cô Thúy phải không? Việc của các em phải tiến hành rồi đó, cứ trù trừ thì không nên việc đâu.” Minh Châu sa sầm nét mặt, lắc đầu nói: “Đại ca, anh không biết sao, cô Thúy đã mất rồi!”

“Thật sao?” Ngũ Thứ Hữu giật thót mình, chồm lên gần như nhảy ra khỏi sạp, “Sao chú không sớm cho ta biết tin?”

Minh Châu than rằng: “Một là người chết không sống lại được, hai là sợ làm kinh động đại ca trong khi đang ốm. Anh Trụ lãnh ba trăm lạng bạc tiền phúng viếng, chỉ giấu đại ca. – Cô là một gái trăng hoa, em cũng xem như không phụ lòng nàng.”

“Nói gì vậy?” Ngũ Thứ Hữu nghe câu sau của Minh Châu rất bất bình, mặt bỗng biến sắc nói, “Chú chẳng phải là một ăn mày lạnh suýt chết đó sao? Chú đọc sách thánh hiền, làm sao lại đối xử như vậy với số phận một con người?”

“Đại ca dạy phải.” thấy Ngũ Thứ Hữu tức giận. Minh Châu vội nhận sai sót về mình. Anh tuy chán nghe đoạn lịch sử ăn mày này, nhưng trước mặt Ngũ Thứ Hữu cũng chẳng biết nói thế nào, đành chỉ nghĩ thầm: Nếu anh biết thân phận của anh, chắc sẽ không tức giận, nhưng mồm lại nói: “Kỳ thực lòng em cũng đã đau khổ biết bao, nói ra, cô ấy cũng là vì em...”

Nghe Minh Châu kể rõ về cái chết của cô Thúy, Ngũ Thứ Hữu lặng yên rất lâu, chỉ đờ đẫn nhìn vào làn khói thuốc trước mặt. Rất lâu, mới thở ra một hơi dài: “Cô ta không phải vì một mình chú, chú cũng đừng quá lo nghĩ. Xem qua thư từ của cô ấy, thấy như có nguyên do lớn lao gì, ta cũng không biết nữa.”

“Nguyên do” tất phải có, trong lòng Minh Châu biết rất rõ, nhưng không thể nói ra, đành chỉ im lặng. Bên ngoài, gió đã nổi không biết từ lúc nào, kèm theo mưa lâm râm lào xào đập vào cửa sổ. Hai người yên lặng ngồi nghe, cảm thấy rét run từng hồi. Bỗng nghe tiếng cửa kêu kít, Ngụy Đông Đình bước nhanh vào, vừa cởi tấm áo choàng khoác ngoài, vừa cười nói: “Hai anh em sao vậy? Y như hai ông Phật đất ngồi tham thiền.”

“Có sao đâu,” Ngũ Thứ Hữu gượng cười nói, “xin mời vào.”

Ngụy Đông Đình nói: “Ngồi đây tốt rồi.” Rồi ghé mình ngồi xuống rìa sạp, cố nén nỗi xúc động trong lòng nói: “Báo các anh một tin này, hôm nay, Thánh thượng ra chỉ dụ tấn phong Ngao Bái làm Thái sư, nhất đẳng công. Vừa mới từ đó sang, phủ họ Ngao mở tiệc linh đình, treo đèn kết hoa sáng trưng như ban ngày... Kiệu to, kiệu nhỏ đến chúc mừng để đầy ngoài đường phố.”

“Không phải họ Lưu không được làm vương, chỉ còn kém chút xíu thôi.” Minh Châu cười nói, “Ngũ đại ca lòng đang buồn bực, sao không chọn thêm mấy việc tốt nữa mà nói?”

Ngũ Thứ Hữu nói lạnh nhạt: “Cũng chẳng có chuyện gì buồn phiền, hồi trước ta nói Ngao Bái cực thịnh khó kéo dài, cái bàn toán này, có thêm nút, đại để cũng tới mười thì phải quy một thôi. Theo cách nhìn khách quan của tôi, có thể là thông minh tuyệt đỉnh, cũng có thể là người cực sáng suốt chỉ vẽ cho.”

“Thế nào? Câu này là ý làm sao?” Ngụy Đông Đình trừng mắt nhìn Ngũ Thứ Hữu, Minh Châu cũng nói: “Đại ca, câu này khó hiểu đó.” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Có gì khó hiểu, Ngao Bái gần đây dưỡng bệnh tại nhà, không có chút công lao nào, vì sao triều đình gia phong cực phẩm? Trong lòng ông ta, nếu nuốt sống được Hoàng thượng, thì đã ra tay từ lâu rồi. Cái lộc mà chẳng có chút công lao nào, đương nhiên ông nhận ngon lành, quả là nhà cầm quyền gà mờ rồi!”

Ngụy Đông Đình và Minh Châu nghi ngờ nhìn nhau. Câu nói của Ngụy Đông Đình quả rất kỳ diệu, quả rất trùng hợp! Ngũ Thứ Hữu thấy hai người nghi ngờ, cười nói: “Hai vị chớ có cả tin! Ta chỉ theo lý mà đoán thôi. Các vị ngày nào trở về cũng nói tình hình trong triều, mà không cho ta bình luận mấy câu sao?”

Mấy ngày nay. Cửu môn Đề đốc Ngô Lục Nhất bận rộn chuẩn bị ngày hội đầy năm của cậu công tử. Ngô Lục Nhất lấy vợ rất muộn, phu nhân Khánh thị hai lần sinh trước đều là con gái, mãi đến năm bốn mươi ba tuổi mới sinh được quý tử, mừng rỡ khôn xiết. Đãi khách ba ngày, riêng thiệp mời đã gửi đi hơn hai trăm chiếc. Có điều lạ nhất là ông không mời một vị khách bên ngoài nào, mà đều là bạn cố cựu, hoặc là tướng tá mới nhậm chức. Nhưng trước nay người ta đã quen với việc ông làm trái khoáy đó rồi.

Vào giờ Mùi buổi chiều, khách khứa đều tới chúc mừng, hành lang đông tây xếp đầy những hộp lễ vật đủ màu sắc. Ngô Lục Nhất đều nhận tất, người trong nhà ai cũng ngạc nhiên, lão gia thường ngày rất là liêm khiết, bình sinh, trừ Tra Y Hoàng ra đều không nhận lễ riêng của bất cứ ai, hôm nay sao lại khác thường như vậy?

Không ít khách khứa là bộ hạ trước kia của ông, bây giờ đều làm việc ở các nha tại kinh sư, có người là cám quân, có người phẩm trật vượt hơn ông, nhưng vẫn rất kính nể ông. Bọn họ đến, chỉ hàn huyên mấy câu, phần lớn đưa danh mục tặng vật, rồi nói câu cáo từ, tỉ như “có việc cần, buổi tối không đến dự tiệc được, xin tha lỗi”, rồi đi. Ngô Lục Nhất biết họ phải tới phủ Ngao thù tạc, nhưng không nói ra, chỉ cười cười đón tiếp, rồi tiễn từng người một. Sắp tới tối, trừ Ngụy Đông Đình coi như khách bên ngoài, còn lại đều là thuộc hạ của ông: như phó tướng, tham tướng, du kích, thiên tổng, những người này không dám bỏ đi vì chưa có lệnh.

“Chư vị!” Ngô Lục Nhất thấy mọi người đã ngồi yên vị, bèn đứng lên, nâng một chung rượu to, lên bổng xuống trầm, nói bằng giọng nói không nam không bắc, “Hôm nay làm lễ thôi nôi cho tiểu nhi, được quý vị niệm tình! Tôi thấy đây phần lớn là anh em đã cùng sống chết với tôi mười mấy năm trời, thật vui mừng khôn xiết!”

Lưu Tham tướng ngồi ở bàn đầu vòng tay vái, nói: “Quân môn! Hôm nay lễ thôi nôi rất vinh hạnh được Ngụy đại nhân đến dự, đó là Ngụy đại nhân coi trọng Đề đài của chúng ta không leo lên cao được. Nào, người anh em, trước xin kính anh một ly!” Nói xong rót đầy một ly rượu hai tay dâng lên. Tướng tá trong phòng đồng thanh thúc giục: “Ngụy đại nhân là cận thần của Thiên tử, khó có dịp tới, xin mời Ngụy đại nhân ban phúc trước tiên cho tiểu công tử!”

“Được!” Ngụy Đông Đình thấy quân tướng dưới trướng người nào cũng khí phách anh hùng đúng như danh vị của mình, liền nâng ly uống một hơi cạn, dốc đáy ly nói: “Anh em, nào xin mời!”

Thế là cốc lớn ly nhỏ nâng lên, cùng với tiếng la liếng hét. Chỉ trên bàn đầu giữa nhà, “Ăn mày sắt” bên phải một ly, bên trái một ly, uống hết ly này sang ly khác, thần sắc tự nhiên. Hà Chí Minh tiếp Ngụy Đông Đình ở bàn bên, luôn luôn gắp mời rượu thịt.

Rượu đến lúc ngà ngà, Ngô Lục Nhất mặt hơi ửng đỏ, nói một tiếng “cứ tự nhiên”, rồi bỏ đi. Trừ Ngụy Đông Đình ra, không ai để ý hành động này. Hà tiên sinh thấy Ngụy Đông Đình sững sờ liền đứng lên rót rượu, rồi khẽ nói: “Ngụy đại nhân, Quân môn của chúng tôi đã phát động rồi, để trễ e không kịp.” Ngụy Đông Đình bỗng giật thót tim, rượu tràn lên, tim đập loạn xạ, cố trấn tĩnh, gật đầu cười nói: “Quả là danh bất hư truyền, “sắt” cứng thật!”

Đang nói thì Ngô Lục Nhất đã trở lại đại sảnh, đầu ông đội mũ chóp đỏ có tua, mình mặc chiếc áo bào thêu sóng, lưng đeo kiếm dài, chân mang ủng vóc đen mới toanh, lắc lư bước ra. Đập vào mắt rõ nhất là chiếc áo chẽn khoác ngoài màu vàng, sáng chói mắt dưới ánh đèn, chúng tướng dự tiệc cảm thấy có sự kiện gì quan trọng, đều ngưng uống, nhìn sững người chủ tướng, không hiểu sẽ rút ra phương thuốc gì trong hầu bao của ông.

Bốn năm mươi vị tướng tá ngẩn ngơ như gà gỗ nhìn theo “Ăn mày sắt” bước vào giữa phòng như chẳng nhìn thấy ai. Ông không nói lời nào, thớ thịt trên mặt giật giật, ánh mắt dữ tợn nhìn ra bốn phía. Ông vẫy tay một cái, hơn ba mươi hiệu úy toàn bộ võ phục nghiêm trang, tản khai đội hình, chặn hết các cửa ra vào đại sảnh.

“Thỉnh vương mệnh!”

“Ăn mày sắt” hô một tiếng lệnh, các tướng lập tức rời bàn tiệc, đứng nghiêm hai bên. Phía sau, mấy tên hiệu úy bảo vệ cờ hiệu vương mệnh, dạ to một tiếng từ từ khênh ra một bàn kiệu long đình lung linh chạm khắc bằng gỗ tiêu đỏ. Ở giữa cắm một lá cờ lệnh màu lam thêu viền vàng, trên viết chữ “lệnh” màu vàng bằng hai thứ chữ Mãn, Hán. Đó là lá cờ hiệu vương mệnh do Thái Tổ Đại Hành Hoàng đế ban riêng cho Ngô Lục Nhất. Long đình vừa ra, Lưu Tham quân lãnh hàm lớn tiếng hô “Vạn tuế!” rồi quỳ xuống, những người khác cũng hô theo, làm lễ ba quỳ chín lạy, đập đầu xuống đất nghe hiệu lệnh.

“Lý Nhất Bình, Hoàng Khắc Thắng, Trương Nhất Phi, Lưu Thương bốn người xu phụ gian nịnh, kết bè tư lợi, loạn quân loạn chính, mưu đồ phi nghĩa – tả hữu bắt lấy!”

“Dạ…”

Bốn người chưa kịp hiểu ra việc gì, mấy tên hiệu úy hung dữ xông ra, hai người bắt một, thành thạo kéo tay ra sau, trong nháy mắt đã trói thật chặt.

Lý Nhất Bình là phó tướng, phẩm trật giống như Ngô Lục Nhất. Giờ đây hắn hoảng sợ trước uy thế của Ngô Lục Nhất, khi tỉnh lại, bỗng vùng đứng dậy, nghển cổ hỏi: “Ông nói chúng ta xu phụ gian nịnh, mưu đồ phi nghĩa, chứng cứ đâu? Đây là ở kinh đô, muốn giết người không phải dễ đâu?”

“Khám người!” Ngô Lục Nhất nghe mà không hiểu chỉ mấy tên bị bắt, lệnh cho lính.

Khám ra thấy rõ. Trong người Lý Nhật Bình ngoài một đoản kiếm sắc bén ra, còn có một gói thuốc bột. Ngụy Đông Đình theo Sử Long Bưu mấy năm, tai nghe mắt thấy, liếc nhìn biết ngay là chất độc. Anh cười ngồi xuống, thở phào một hơi dài. Lại xem Trương Nhất Phi và Lưu Thương cũng đều mặc giáp trong phòng thân, mỗi người giao một con dao ngắn thật sắc. Không hỏi cũng rõ, bọn chúng đã bàn định với nhau trước khi đi dự tiệc. Nhìn Hoàng Khắc Thắng trong người khám không có thứ gì, chỉ làm thinh đứng ngây ra.

Ngô Lục Nhất bỗng nổi giận, cười gằn nói: “Hà tiên sinh, đem danh sách ra đọc, đọc tên người nào, bắt người đó!” “Vâng!” Hà Chí Minh bỗng đứng lên giữa sảnh, đôi mắt như hạt đậu đen sáng long lanh, rút trong tay áo ra bản danh sách đọc lên lanh lảnh. Tổng cộng mười một người, đều bị các hiệu úy trói chặt như bó lúa. Khám người có đến tám tên mang theo hung khí!

“Tốt!” Ngô Lục Nhất cười gằn một tiếng hỏi, “Giấu những thứ đó trong bụng đi dự tiệc, cũng coi là muốn làm giặc! Các ngươi còn muốn nói gì nữa không?”

“Đoản kiếm là vật phòng thân, thuốc độc là để giết thỏ!” Lý Nhất Bình hô to, “Cứ cho là để giết người, chẳng lẽ lại là mưu đồ phi nghĩa?”

“Hừm!” Ngô Lục Nhất cười nhạt, lửa giận bốc lên từ đan điền càng tỏ ra hung dữ, bèn giơ kiếm đến bên cạnh Lý Nhất Bình nói, “Vốn muốn lấy thủ cấp ngươi, nhưng ngươi chết không bằng một con chó, cứ để cái lưỡi nhà ngươi lại ít nhiều cũng có chỗ dùng. Bay đâu!”

“Dạ!” Từ các hiệu úy đứng dưới hành lang, tiếng đã vang lên như sấm.

Ngô Lục Nhất bỗng giương kiếm, đâm xiên một nhát, mũi kiếm hướng thẳng tới Trương Nhất Phi, Lưu Thương. Hai người kêu thét nột tiếng, ngã quỵ xuống đất – Ngô Lục Nhất rút ra mũi kiếm đầm đìa máu, chùi hai mép lên đôi ủng như chẳng có chuyện gì, rồi thong dong cho vào bao, nói “Đưa xác chết ra, ngày mai đem cho gia đình chúng ba ngàn lượng tiền phúng viếng.”

Chúng tướng trong sảnh thấy ông ngang tàng hung ác, lại có vương mệnh chém tướng, nên không ai dám khuyên can.

“Hoàng tướng quân!” Ngô Lục Nhất cười nham hiểm, quay mặt lại nói: “Việc của ông chưa rõ, vào nhà sau nghỉ ngơi, nếu quả oan cho ông, thì “Ăn mày sắt” đứng ra nhận lỗi! – Mấy vị anh em thiên tổng, du kích có mang ám khí, xin mời đến phòng phía tây!” Nói xong vẫy tay, kẻ mang xác, kẻ dẫn người, một lúc đã dọn dẹp sạch.

“Việc công xong rồi, chúng ta tiếp tục uống rượu!” Ngô Lục Nhất vươn vai, cười ha hả: “Chư vị! Mau tới đây, việc không liên quan gì đến các anh, chúng ta uống rượu thôi!”

Cho dù chúng tướng dưới quyền ông đều là những tướng quân giết người không chớp mắt, nhưng có bao giờ được nhìn thấy cảnh này? Nên đã thất kinh hồn vía, giống như dự yến của Lữ Thái hậu, ai nấy về chỗ ngồi, chân tay bủn rủn. Hà Chí Minh, người mưu sĩ hậu đài ban nãy cũng như Ngụy Đông Đình đã nhìn hoa mắt, bây giờ trấn tĩnh lại, vội nâng ly nói: “Chư vị tướng quân! Chúng ta cạn ly mừng tiểu công tử mau lớn!”

Bỗng nhiên bên ngoài truyền vào tin: “Thánh chỉ tới!” Ngô Lục Nhất cười nói với mọi người: “Ta không ngờ đến nhanh thế này! Các vị cứ yên tâm ngồi uống rượu, ta đi tiếp chỉ!” Rồi sai: “Đốt pháo nghênh chỉ!”

Bên này ba tiếng pháo vang lên, Thái Tất Đồ mặt cười hớn hở phụng chỉ bước vào, nói: “Thiết công, hôm nay tôi xin báo tin mừng, sáng nay cho Ngao Thái sư ban bố chiếu ân, chiều tối sẽ đưa Thánh chỉ, rượu mừng xin được nâng một ly!”

Ngô Lục Nhất cười ha hả nói: “Cái đó tất nhiên!” Nói xong bèn sai đặt bày hương án. Bên trong, chúng tướng còn lòng nào uống rượu, ai cũng dừng đũa đặt ly, lắng tai nghe ngóng.

Thái Tất Đồ thấy Ngô Lục Nhất vui vẻ hớn hở, không có ý gì đề phòng, trong lòng đã yên tâm một nửa. Chỉ đợi hương án đặt bày xong, liền bước lên phía trước, đứng quay về hướng nam, từ từ mở chiếu thư đọc lên:

Phụng Thượng dụ: Cho Ngô Lục Nhất thực lãnh chức Thị lang bộ Binh khuyết, và gia hàm Thượng thư, cấp lông trĩ hoa hai mắt. Chức Đề đốc Cửu môn khuyết, tạm do Lý Nhất Bình đảm trách. Khâm thử.

Chúng tướng trong sảnh nghe chiếu, ai nấy cũng kinh hồn thất sắc. Chỉ riêng Lý Nhất Bình bị trói ở phòng sau là mừng thầm, có điều mồm nhét đầy giẻ không kêu lên được.

Ngô Lục Nhất khấu đầu tay tiếp chỉ, cũng không đọc, cười hi hi, nói với Thái Tất Đồ: “Việc công xong rồi, đi uống rượu mừng. Đi, xin tẩy trần cho Thái đại nhân!”

Một hiệu úy hai tay bưng mâm rượu lên. Thái Tất Đồ đứng uống một ly, cười nói: “Xin mời Lý đại nhân ra đây, chúng ta cùng chúc một ly.” Lời chưa dứt, bỗng nghẹn dừng lại, nguyên do Ngô Lục Nhất đang nâng đọc chiếu chỉ, sắc mặt càng tối sầm lại.

“Thái công!” Ngô Lục Nhất một tay nắm chiếu hỏi: “Tại sao không phải Hoàng thượng tự tay viết chiếu?”

“Ngoài đặc chỉ ra, làm gì có tự tay viết? Đều do Hàn lâm thảo, rồi đưa lên Thượng thư phòng Hoàng thượng xem qua, đóng dấu.” Thái Tất Đồ ngạc nhiên nói, “Tôi có mấy cái đầu, dám dùng chiếu giả khi quân?”

“Không đúng rồi!” Ngô Lục Nhất bỗng đổi sắc mặt, đôi mắt trừng trừng, cả giọng nói cũng vô cùng chối tai, quay đầu vẫy tay các quan tướng đang uống rượu trong sảnh: “Ra hết đây!”

Các tướng bị sự việc đêm nay làm mụ mẫm, nghe tiếng gọi đều lần lượt bước ra, khom người xuôi tay đứng dưới hành lang.

“Ta có một lời, chư tướng lắng nghe!” Ngô Lực Nhất lên giọng nói, rồi từ trong túi rút ra tờ mật chiếu nói: “Đốt pháo tiếp chỉ!” Chốc lát nghe ba tiếng pháo to nổ đinh tai. Chỗ khói đùn lóe sáng, phòng phía tây nổ tung thành đất bằng, tám tên thiên tổng giấu hung khí trong người đến dự tiệc đã nổ tung thành tro bụi! Chúng tướng dưới hành lang hoảng kinh không còn ra hồn người, phủ phục xuống đất hô to “Vạn tuế!”

Trước mặt mọi người, Ngô Lục Nhất đọc mật chiếu, nói giọng rõ to: “Hoàng thượng tự tay viết mật chiếu cho tôi, chức Đề đốc Cửu môn, chỉ dụ không phải tự tay vua viết, đều không phụng chiếu! Hôm nay Thị lang Thái Tất Đồ đến đây giáng chỉ, lại do Thượng thư phòng thảo, việc này thật là kỳ quặc!” Nói xong chuyền hai tờ chiếu thư cho chư tướng: “Các vị nhìn xem!”

Thái Tất Đồ hoảng kinh, hai chân run run, vội gượng cười nói: “Hạ quan không biết Hoàng thượng có mật chiếu này chắc là Thượng thư phòng làm sai. Trở về tra lại thì rõ ngay, đêm nay Ngô công không phụng chiếu thì thôi.”

“Thái công, lẽ nào ngài không biết Ngô tôi còn có biệt danh “Ăn mày sắt”?” Ngô Lục Nhất cười nói, ““sắt” là lòng cứng như sắt, “ăn mày” là lấy mãi không thôi. Đã đến rồi, thì không dễ bỏ đi!” “Ta là đường quan bộ Binh, anh có ghê gớm gì chẳng qua cũng là thuộc hạ của ta, xem anh muốn gì đây?” Thái Tất Đồ biết là không thể làm lành, nên thái độ trở nên cứng rắn.

“Cũng chẳng muốn gì.” Ngô Lục Nhất cười nói, “Ngài cùng Lý tướng quân một đường, tạm nhẫn nại một chút ở lại phòng phía đông tệ phủ, ngày mai, sự việc làm rõ rồi, tôi sẽ xin lỗi ngài được chứ!” Nói xong, vẫy tay, “Bắt đi!”

“Cả gan!” Thái Tất Đồ dù gì cũng là Thị lang bộ Binh, quát lên một tiếng, mấy tên hiệu úy nhìn nhau đứng trân, không dám ra tay. “Ăn mày sắt” giận lắm, bước lên rồi bỏ đi.

“Hãy khoan!” Ngụy Đông Đình cười khanh khách, từ trong sảnh bước ra, “Xin Thái thị lang viết cho Ngao Trung đường mấy chữ.”

“Viết cái gì?” Thái Tất Đồ thấy Ngụy Đông Đình cũng ở đây, biết là việc lớn không thành, hỏi, giọng run run,

“Ngài viết,” Ngụy Đông Đình vung tay, một cậu bé trong nhà bưng ra bút nghiên trải ra trên tam cấp, “viết rằng “việc ăn mày xong, theo kế mà làm” chỉ tám chữ là được.” Thái Tất Đồ không cách nào khác, đành run tay viết đến mấy lần, Ngụy Đông Đình mới bằng lòng nói với chúng tướng: “Mấy anh em nhã nhặn quá, Thái thị lạng đi vào như thế này, không làm Lý tướng quân đỏ mắt sao, cũng xin sắp xếp sao cho tốt.”

“Ăn mày sắt” chỉ gật đầu, các hiệu úy cũng theo gương Lý Nhất Bình, trói lại đưa đến phòng phía đông.

Sắp xếp xong mọi việc, trời đã hửng sáng, đúng lúc trống điểm năm canh đã hết. Thời gian khẩn cấp, Ngụy Đông Đình cười nói với Ngô Lục Nhất: “Tướng quân làm việc thật sảng khoái, nhưng vẫn còn một việc, nhờ tướng quân hết sức giúp đỡ.”

“Việc gì?”

“Ngoài việc làm theo như chúng ta đã bàn đêm trước, còn cần Hà tiên sinh giúp cho một chuyến mạo hiểm.”

“Tôi?” Hà Chí Minh nghe nói đến mình, chẳng biết nếp tẻ gì, thấy Ngụy Đông Đình vẫy vẫy tờ giấy trong tay lập tức hiểu ra. Sau một hồi do dự, nói lúng búng: “Chỉ sợ sức không làm nổi!”

“Anh tính toán vô cùng chặt chẽ, việc này không có anh không được.” Ngụy Đông Đình cười nói: “Hễ có chiếu thư, anh sẽ là chủ sự ở bộ Binh, thưởng hàm Thị lang, chẳng lẽ để tay không gặp chủ nhân?”

Hà Chí Minh nói: “Không phải tôi không dám đi, tên Ngao Bái này đa nghi lắm, chỉ sợ bị cật vấn liên tiếp, làm hỏng việc lớn của chủ.”

“Chí Minh!” Ngô Lục Nhất khảng khái nói, “Tôi đã “điểm mắt” rồi, cần anh “giết cướp”, lòng không thể ngờ, tay không thể yếu. Đại trượng phu thành bại hay không là ở việc này!”

Hà Chí Minh nghe câu nói này, hai tay chắp thật cao nói: “Vậy em xin nhận lệnh này!” Nói xong đi thay bộ quần áo đen, đút mảnh giấy vào tay áo, chào ra đi.