Tay súng cuối cùng- Chương 44- P01

Sau khi thất bại trong việc lần ra nguồn gốc của đường dây cung cấp Oxy và các loại thuốc bán theo đơn chứa chất gây nghiện khác vào khu vực D.C, Randall Cove đã thay đổi chiến lược và quyết định tấn công từ phía đầu nhận thay vì đầu cung cấp. Anh đã sử dụng những gì mà tên chỉ điểm T phun ra để bám theo một băng đảng buôn ma túy mà theo T là gần đây chúng đã chuyển sang kinh doanh các loại thuốc gây nghiện kia. Kể ra cũng thật ngỡ ngàng trước những kết quả mà bạn có thể nhận được từ một tên chỉ điểm khi bạn dốc ngược đầu hắn trên miệng vực sâu hơn ba chục mét. Cove đã suy ra rằng sẽ có lúc chúng cần nhận thêm hàng. Chiến thuật này đã đưa anh đến đây đêm nay, và anh cũng hy vọng nó sẽ sớm mang lại những kết quả khả quan nhất.
Đó là một khu rừng rậm rạp, Cove len lỏi qua những hàng cây mọc ken dày một cách cực kỳ lặng lẽ. Đến bìa rừng thì anh dừng lại, ngồi thụp xuống và quan sát địa hình phía trước. Những chiếc xe đang đỗ trên một con đường đất uốn lượn qua các vạt rừng nằm giữa ranh giới hai bang Kentucky và Virginia. Nếu như Cove có thể gọi ai đó đến yểm trợ hẳn anh đã làm rồi. Thậm chí anh đã nghĩ đến việc gọi cho Venables, nhưng những gì Sonny làm đã là quá đủ, anh ta còn có vợ con, hơn nữa chỉ một thời gian nữa là nghỉ hưu. Cove không đời nào làm hỏng viễn cảnh yên ả đó của bạn mình. Cove là đặc vụ chìm can đảm, quá quen với những tình huống nguy hiểm nhất có thể, nhưng xưa nay lúc nào cũng chỉ có một ranh giới mong manh giữa can đảm và ngu ngốc, và cho đến lúc này Cove vẫn luôn chọn đúng bên cần đứng.
Cove thụp đầu xuống thấp hơn và nhìn thấy vài tên đang túm tụm lại quanh một chiếc xe. Anh rút trong túi ra chiếc ống nhòm hồng ngoại nhìn đêm để quan sát thật rõ. Những gói nhỏ bọc nhựa mà chúng bưng trên tay càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Cove. Đó không phải là những bánh côcain mà trông giống như hàng nghìn lọ thuốc nhỏ. Cove lấy ra chiếc máy ảnh không có đèn flash và bấm nhanh vài bức ảnh, sau đó anh phân vân không biết nên làm gì tiếp theo. Trước mặt anh lúc này có ít nhất là năm tên, tất cả đều mang vũ khí. Lao ra thực hiện việc bắt giữ chúng lúc này là quá nguy hiểm và ngu xuẩn. Trong lúc còn đang phân vân phải làm gì tiếp theo, Cove không nhận thấy một điều là gió đã hơi đổi hướng. Thật ra anh chỉ nhận ra điều đó khi con chó vẫn nằm nép mình bên chiếc xe bán tải bên ngoài tầm quan sát của Cove, hộc lên một tiếng rồi bứt khỏi chiếc xe và lao thẳng về phía anh.
Cove lầm bầm rủa thầm, quay người và lao vọt vào trong rừng. Tuy nhiên, con chó đang mỗi lúc một tiến sát phía sau Cove, và hai đầu gối từng bị đứt dây chằng của anh không còn thích hợp với trò đuổi bắt này nữa. Anh còn nghe thấy những âm thanh khác khiến hy vọng trốn thoát của anh chọi tan biến hết. Có vài con vật hai chân khác cũng đang từ trước mặt anh chạy lại.
Chúng dồn anh vào một góc rừng lầy lội. Con chó lao thẳng vào Cove, những chiếc năng của nó nhe ra trắng nhởn, Cove nâng súng lên và bắn chết con chó ngay phát đầu tiên. Nhưng đó cũng là phát súng cuối cùng anh có thể bắn, vì ngay lập tức đã có cả một biển súng ngắn chĩa thẳng vào anh. Cove giơ súng lên trời, đầu hàng.
“Thả súng xuống,” một kẻ truy đuổi anh lạnh lùng nói, và Cove thả súng xuống đất.
Bọn chúng tiến lại, thột tên lục soát người Cove, tước nốt khẩu súng anh giấu trong tay áo khoác, và lấy luôn cả chiếc máy ảnh.
Nemo Strait quỳ xuống bên con chó và dịu dàng vuốt ve nó. Sau đó hắn ngẩng đầu lên nhìn Cove với ánh mắt căm thù khiến anh có cảm giác anh vừa cắt cổ mẹ hắn thì đúng hơn. Strait từ từ nâng súng lên, bước lại gần và rít lên.
“Tao đã nuôi con Old Cuss được sáu năm nay. Một con chó khôn như quỷ!”
Cove lặng thinh. Một tên khác lấy báng súng giáng mạnh vào lưng anh nhưng Cove chỉ bật ra một tiếng rên khe khẽ.
Strait tiến sát lại và nhổ bọt vào mặt Cove. “Quỷ tha ma bắt tao đi vì đã không kiểm tra xem mày chết thật chưa khi bọn tao xô xe mày xuống triền dốc đó. Lẽ ra mày phải coi đó là ngày may mắn nhất của đời mình và biến đi mới phải.”
Cove vẫn không nói gì, nhưng anh kín đáo khẽ nhích lại gần Strait hơn một chút. Anh liếc nhìn những tên xung quanh. Bọn mua hàng đêm này đều là dân da đen từ thành phố đến. Nhưng Cove không hy vọng gì nhận được sự giúp đỡ của những kẻ có cùng màu da với mình. Trong thế giới của bọn tội phạm thì tiền vượt trên tất cả các giá trị khác.
Strait ngoái đầu lại nhìn qua vai mình, về phía chiếc rơ moóc chở ngựa với con Bobby Lee trên đó, rồi quay lại đối mặt với tù nhân của mình và mỉm cười độc địa.
“Thằng này, lúc nào mày cũng thích chĩa mũi vào chuyện của người khác thế à? Hả?” Hắn ấn khẩu súng vào má Cove và đẩy mạnh nòng súng lạnh toát vào thịt anh. “Hãy trả lời khi tao hỏi mày nào ?”
Câu trả lời của Cove là một bãi nước bọt vào giữa mặt hắn.
Strait giơ tay chùi mặt và ấn nòng súng vào thái dương Cove. “Mày chết rồi con ạ.”
Mũi dao phóng thẳng ra từ chính ống tay áo mà Cove đã giấu khẩu súng thứ hai. Kinh nghiệm của anh là không kẻ nào lại mất công lục soát tìm thêm vũ khí tại chính vị trí mà hắn đã phát hiện ra một thứ trước đó.
Nhát đâm của Cove nhắm vào tim, những lớp bùn lỏng phía dưới làm anh hơi trượt chân, và Strait cũng nhanh hơn Cove tưởng, con dao chệch đi một chút và cắm ngập vào vai Strait. Hắn ngã lăn ra vũng nước bùn nhớp nháp, mang theo cả con dao cắm trong vai.
Cove đứng lạng người trừng trừng nhìn những tên đứng vây quanh mình.
Trong một khoảnh khắc chỉ một phần nghìn giây thế giới chợt như dừng lại trước mắt Cove. Anh nhìn thấy vợ và con đang chạy tới chỗ anh đang đứng giữa một cánh đồng mênh mông bát ngát hoa, nụ cười rạng rỡ trên mặt họ và những vòng tay giang rộng như xua tan tất cả những gì tồi tệ đang xảy ra với anh trong cả cuộc đời. Và có quá nhiều điều thật đáng quên đi.
Rồi súng đồng loạt nổ. Cove dính nhiều phát đạn vào người và gục xuống. Đúng lúc đó tất cả bọn kia đều ngẩng mặt lên trời vì chúng chợt nghe thấy tiếng trực thăng đang phành phạch bay tới. Vài giây sau, ánh đèn pha cực mạnh quét sáng trưng trên những ngọn cây.
Strait đứng bật dậy. “Biến khỏi đây mau.”
Dù vết thương khá nặng, Strait vẫn đủ sức bê con chó chết của hắn lên và đưa nó đi. Chưa đến một phút sau toàn bộ chỗ đó đã trống trơn không một bóng người. Chiếc trực thăng bay vọt qua, rõ ràng là phi hành đoàn trên đó hoàn toàn không hay biết những gì diễn ra bên dưới. Hóa ra Strait đã bị thần hồn nát thần tính - chiếc trực thăng chỉ đang vận chuyển một nhóm doanh nhân trở về nhà sau một cuộc họp muộn.
Khi khung cảnh khu rừng ban đêm đã yên ắng trở lại, trong bóng tối đen đặc bỗng bật lên một tiếng rên khe khẽ. Randall Cove cố gượng dậy, nhưng mặc dù là người khỏe như voi, anh cũng không nhúc nhích được thêm chút nào. Chiếc áo giáp anh mặc trong người đã hứng trọn ba trong số năm viên đạn. Hai viên còn lại đã xuyên vào trong người anh. Cove ngã vật xuống đất, máu từ các vết thương ứa ra nhuộm đỏ cả vũng nước xung quanh.
*
Claire Daniels đang làm việc rất khuya trong văn phòng. Cửa ngoài đã khóa, hơn nữa tòa nhà lại có nhân viên an ninh bảo vệ, nên dù sao cô cũng cảm thấy ở đây còn an toàn hơn so với khách sạn nơi cô đang ở. Người bạn dược sĩ vừa thông báo cho cô về kết quả phân tích viên thuốc lạ lẫm mà cô lấy từ chỗ Web. Claire cứ đinh ninh đó phải là một loại thuốc an thần cực mạnh vì cô vẫn nghĩ rằng rất có thể việc Web bị tê liệt toàn thân trong con hẻm đó là hậu quả của sự tương tác thuốc. Bình thường thì giả thuyết này nghe có vẻ nực cười, nhưng ít nhất thì lúc này nó lại rất khớp với những gì cô có, hơn nữa cũng chẳng còn cách giải thích nào khả dĩ hơn thế cả. Tuy nhiên, cú điện thoại trả lời đã thay đổi tất cả.
“Đó chỉ là một loại thuốc trấn an ([83]),” người bạn đã khẳng định với cô. “Giống như những gì họ vẫn dùng cho các nhóm người tình nguyện khi thử nghiệm thuốc.”
Một loại thuốc trấn an? Claire ngỡ ngàng không tin vào tai mình. Tất cả những viên còn lại không có gì đặc biệt.
Giờ đây, ngồi trong văn phòng, Claire cố tìm câu trả lời cho tất cả. Nếu không phải do hậu quả của tương tác thuốc thì là gì mới được chứ? Cô không muốn tin rằng Kevin Westbrook đã đặt một lời nguyền lên Web với câu nói “quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi.” Tuy vậy, rõ ràng là những từ đó đã tác động tới Web. Hay chỉ vì anh đã kiệt sức?
Claire chăm chú xem lại những cuốn sổ ký họa của Westbrook mà Web đã để cô giữ. Bức vẽ có hình ảnh Kevin với chiếc điều khiển từ xa đã được chuyển thẳng cho FBI, trong những cuốn sổ còn lại không còn bức vẽ nào tương tự như vậy. Claire nghiên cứu những bức vẽ mà cô có lúc này, phải công nhận là nhiều bức tranh được vẽ rất tinh tế. Thằng bé quả là có tài năng nghệ thuật thiên bẩm.
Không thấy trang nào trong những cuốn sổ ký họa có nhắc đến dòng chữ “Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi”. Lẽ nào lại dễ dàng đến thế, Claire nghĩ bụng. Cô lại miên man suy nghĩ về những từ đó. Nghe chúng có vẻ cổ xưa thế nào ấy - từ thời Nội chiến chăng, có khi còn trước đó cũng nên. “Quỷ tha ma bắt lũ ngư lôi đi, tăng tốc tối đa nào,” theo giai thoại thì đó là câu nói nổi tiếng của Đô đốc Farragut trong một trận giao tranh trên biển của hải quân hai miền.
Claire viết lại những từ đó trên một mảnh giấy. Vậy là Web cho rằng những từ đó có xuất xứ từ thời Nội chiến. Nô lệ, da đen và da trắng. Những kẻ cuồng tín da trắng. Cô cau mày khi ý nghĩ đó xuất hiện trong đầu, nhưng rồi đột nhiên mọi chuyện thật rõ ràng.
Bọn Hội Tự Do chăng? Quỷ tha ma bắt mày xuống địa ngục đi. Cô nhìn chăm chăm vào máy tính trên bàn. Rất có thể chứ. Thêm vài cái nhấp chuột và chỉ sau hai phút cô đã có câu trả lời. Bọn Hội Tự Do còn có hẳn một website. Một công cụ tuyên truyền kinh tởm sặc mùi thù hận mà có lẽ chúng sử dụng để tuyển mộ những tên ngu xuẩn và có tâm hồn quỷ dữ như chúng vào hàng ngũ. Và khi cô nhìn thấy nó, hơi thở của Claire như đông cứng lại nơi cổ họng.
Đúng lúc đó cả văn phòng của cô vụt tối om. Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa vụ mất điện và những gì Claire vừa chứng kiến khiến cô bàng hoàng hét toáng lên. Hét xong, cô vội vàng chụp lấy điện thoại và gọi xuống quầy của đội bảo vệ phía trước tòa nhà.
Giọng trả lời đầy bình tĩnh của người bảo vệ vang lên ở đầu dây bên kia, cô vội vã giải thích chuyện vừa xảy ra.
“Chắc không phải mất điện toàn tòa nhà đâu, tiến sĩ Daniels. Dưới này đèn vẫn sáng mà. Có lẽ là do cầu dao nào đó bị sập xuống thôi. Bà có muốn tôi lên đó không?”
Cô nhìn ra cửa sổ và thấy những tòa nhà xung quanh vẫn còn sáng điện. “Không, không sao đâu. Hình như tôi có một chiếc đèn pin thì phải. Nếu đúng như anh bảo thì tôi chỉ cần kéo cầu dao lên là xong.”
Cô gác máy, lục lọi trong ngăn bàn và cuối cùng cũng tìm thấy chiếc đèn pin, rồi lần mò tìm đường ra khỏi văn phòng, bước qua khu vực tiếp tân. Cô bước tới cuối hàng lang nơi có căn phòng nhỏ đặt thiết bị, bên trong là tủ điện và vặn tay nắm. Cửa bị khóa. Lạ thế nhỉ, cô nghĩ bụng, nhưng cô chợt nhớ ra là trong này còn có cả những đầu giắc cắm hệ thống điện thoại và thiết bị an ninh của cả tòa nhà, những đường dây như vậy cần được bảo vệ cẩn thận, tránh mọi sự can thiệp không cần thiết. Nhưng nếu vậy cô làm cách nào để kéo cầu dao lên bây giờ? Cô tính đến chuyện thu dọn đồ đạc và quay về khách sạn, nhưng toàn bộ giấy tờ ghi chép cô đều để ở văn phòng này, hơn nữa cô cũng không có máy tính xách tay để truy cập Intemet từ khách sạn.
Cô rọi đèn run lên ổ khóa. Trông nó không có vẻ gì đặc biệt. Claire vào căn bếp nhỏ dùng chung và tìm thấy một chiếc tuốc nơ vít. Cô quay ra cửa phòng thiết bị, kẹp chiếc đèn pin dưới nách và loay hoay cạy khóa tủ. Mất khoảng năm phút, chiếc khóa cũng bung ra và cô mở được cánh cửa. Cô rọi đèn vào trong và chăm chú nhìn quanh. Chỉ vài giây sau cô đã nhìn thấy chiếc tủ điện, và quả thật là cầu dao mạch điện chính đã sập xuống từ lúc nào. Cô gạt nó lên và đèn lại vụt sáng trở lại. Claire đang định đóng cánh cửa tủ thiết bị thì có gì đó khiến cô chú ý. Đó là một thiết bị nhỏ được nối vào đường dây điện chạy thẳng lên bề mặt tường. Claire cũng không biết nhiều về kỹ thuật, nhưng cô vẫn có cảm giác chi tiết này có gì đó hơi khác thường, kiểu như một con rệp nghe trộm vậy.
Rất có thể là bởi vì những gì cô vừa phát hiện, hoặc cũng có thể là cô đột nhiên trở nên hoang tưởng, nhưng chỉ trong tích tắc, ý nghĩ đó chợt lóe lên trong đầu. Cô lao vội ra khỏi phòng thiết bị, không kịp nhìn thấy một nút bấm không dây bé xíu gắn trên khe cửa đã tự động kích hoạt mỗi khi có người mở cánh cửa phòng thiết bị.
Cô chạy về văn phòng và nhìn quanh phòng. Ánh mắt cô lướt từ sàn nhà lên các mảng tường, rồi cuối cùng là trần nhà và dừng lại. Cô chộp lấy chiếc ghế ở bàn làm việc của mình, tụt giầy và đứng lên mặt ghế để với tay lên thiết bị báo cháy gắn trên trần. Cô đã làm việc quá lâu với những bệnh nhân trong ngành thực thi luật pháp để biết rằng thiết bị báo cháy trên trần nhà là một nơi lý tưởng để cài đặt máy nghe trộm. Cô giật thiết bị báo cháy xuống, và hình như trong khoảng trống trên trần vẫn còn một đường dây điện trông có vẻ rất đáng ngờ. Liệu nó chỉ có trong văn phòng của cô, hay những người khác cũng bị cài máy nghe trộm nhỉ?
Cô để nguyên thiết bị báo cháy lủng lẳng trên trần, nhảy khỏi ghế và chạy một mạch sang văn phòng bên cạnh, đó là văn phòng của O’Bannon.