Sáu Giang Hồ Và Những Mảnh Đời Phiêu Dạt Khác - Chương 14
Sài Gòn 2003
Cánh biếc
Hồn nhiên nghìn cánh biếc
Rong chơi qua muôn trùng
THOA TÍ PHẤN, TÔ CHÚT SON, CHẢI GỠ TÓC xong, Vân đứng trước ngăn tủ quần áo băn khoăn không biết nên mặc áo dài hay sơ mi váy ngắn. Mạnh bỗng tới.
– Ủa, cậu chưa về Cái Côn sao?
– Chưa, còn lấn cấn vài chuyện vặt, hình như cô sửa soạn định đi đâu?
Vừa nói Mạnh vừa lục kiếm chiếc bình cắm mấy cành hồng đặt lên đầu kệ sách ngắm nghía. Vân nói cậu bày vẽ quá. Mạnh cười, bảo hoa hái trộm trong vườn nhà thơ, “fan” cuồng nhiệt của cô, bảo đảm đẹp và thơm hơn hoa ngoài chợ. Cách đây hai năm Vân là cô giáo chủ nhiệm một lớp ngữ văn, Mạnh là sinh viên lớp trưởng năm cuối. Ra trường, mất biệt đâu đó một thời gian rồi hắn chợt quay về trở thành đồng nghiệp. Đầu năm học họ gặp lại nhau, Mạnh có vẻ lúng túng trong cách xưng hô, giờ “cô” và “tôi” nghe đã khá trơn tru, mát ngót. Mạnh từng đi nghĩa vụ quân sự xong mới vào đại học nên tuổi tác hơn kém nhau chẳng bao nhiêu. Ở chung khu tập thể, gặp nhau gần như hàng ngày, gần đây trong mắt nhìn lẫn thái độ cư xử hình như Mạnh muốn chuyển sang “hệ” bạn? Hắn luôn tỏ ra quan tâm đến cuộc sống lẻ loi của người đàn bà trẻ.
Đi đâu? Trực quan phụ nữ mách nàng nếu rủ, Mạnh sẽ theo ngay. Nên chăng? Đến đó hết chín mươi chín phần trăm sẽ gặp anh ấy! Thoáng nghĩ, Vân lảng chuyện:
– Không về quê chắc cậu đã có một địa chỉ đẹp ở đây để vui cuối tuần?
– Đẹp là sao?
Thả người xuống chiếc ghế tựa độc nhất trong phòng, Mạnh đốt thuốc nhả khói, có vẻ như cảnh chiều nhạt nắng ngoài cửa sổ rất đáng ngắm.
– Địa chỉ hồng của cô nàng nào đó. – Vân mỉm cười.
– Cô thấy người ngợm như tôi cũng có một địa chỉ như thế để ghé sao?
– Ơ hay, cậu có đui què mẻ sứt gì mà mặc cảm quá vậy?
Gã nửa đàn ông nửa con trai quay ngoắt lại nhìn đau đáu vào mắt nàng, vết sẹo bên gò má trái đỏ ửng:
– Chẳng phải tìm kiếm đâu xa, cô cho rằng địa chỉ này không hồng, không hấp dẫn sao?
Câu nói nghiêm túc kèm cái nhìn nồng nàn quá mức cần thiết khiến nàng hơi hoảng nhưng rồi trấn tĩnh được ngay:
– Ý kiến hay, rủ thêm vài cô cậu bên kí túc xá nữa sẽ vui ra trò.
– Không rủ thêm ai cả, đông–vui–hao!
Cả hai cùng cười. Sự bướng bỉnh cựu binh và lấc cấc học trò hình như chưa rời khỏi Mạnh. Hắn nhắc lại câu hỏi lúc nãy. Vân nói chắc chắn sẽ ra khỏi nhà nhưng chưa biết sẽ đi đâu. Mạnh bảo, hay là đi uống cà phê! Vân lắc đầu, bỗng dưng hóa giải hai nỗi phân vân cùng lúc: quyết định mặc áo dài và rủ Mạnh theo.
Hai người tới trễ. Hội trường đầy người. Ông hội trưởng trọng tuổi đang báo cáo phương hướng hoạt động năm tới. Vài chục học bổng cho con em nghèo. Phòng khám bệnh miễn phí sẽ mở ở trụ sở hội, kèm quầy bán thuốc giảm giá do một Việt kiều đồng hương tài trợ... Chẳng rõ ai cố tình tìm ai, sau cùng mắt họ cũng gặp nhau, Vĩ ngồi sóng vai một cô gái ở hàng ghế thứ ba bên trái. Dù chỉ thoáng nhìn, vẻ trẻ trung thanh lịch của cô ta cũng bất chợt khiến Vân nghe tim nhói chút ghen tuông. Lọt thỏm giữa những trẻ già trai gái nói rặt giọng miền Trung, đôi khi xen vài giọng lai Nam bộ, chẳng rõ Mạnh có cảm thấy lạc lõng không. Miền Trung, ở đó có một thành phố vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của Vĩ và Vân. Vĩ hơn Vân dăm tuổi, có thời học trò không quen biết nhau, có tuổi đôi mươi mỗi người đi đứng nằm ngồi, vui đùa hay buồn giận trong thế giới tình cảm riêng. Dòng đời xô cuốn đến nơi đây – một thành phố miền Tây Nam bộ – thành hai kẻ tha hương, gặp rồi quen, quen rồi yêu...
Đêm buông ngoài cửa. Đèn bật sáng. Chương trình chuyển sang tiết mục văn nghệ. Bàn ghế chóng vánh xếp gọn lại. Bữa tiệc đứng được bày ra. Các món ăn thức uống gọn nhẹ lôi từ túi xách mỗi người ra bày lên bàn. Gói bánh patêsô Vân mang theo hơi lạc điệu giữa cơ man nào là bánh mứt, nem chả... Giống bao cuộc họp mặt đồng hương khác, từng cụm người quây lại nhắc kể từ cái nắng cái mưa đến từng ngóc ngách phố xá, món ngon quê nhà, hàn huyên chán lại nài ép, giục nhau lên cầm micrô hò, hát.
Mãi mới tìm thấy Vân trong đám đông, Mạnh nhăn nhó:
– Đủ rồi, biến chứ cô!
– Đi đâu? Suốt năm tôi phải uốn giọng, giờ mới có dịp nói rặt giọng quê mình cho đã thèm, chưa đã chưa về.
Mạnh nháy mắt:
– Nói... dối! Tôi biết tỏng cô nán lại vì...
Nói chưa hết câu, hắn đã bị một ông dí ly rượu vào tay, lôi tuột đến nhập vào đám trai trẻ đang sôi nổi nhậu. Nhậu! Bây giờ hễ thấy những ly rượu hay bia trong bất cứ cuộc nhậu nào, lập tức Vân cảm thấy nhói đau ở một điểm nhạy cảm nào đó trong tâm khảm. Ở xứ sở này ngày nào nước dưới sông không còn nữa thì trên bờ may ra mới không còn những cuộc nhậu! Vĩ từng cay đắng bảo thế. Phải chi đêm hôm ấy ông bác sĩ trực cấp cứu ở bệnh viện đa khoa đừng say rượu... Bây giờ thỉnh thoảng Vân lại bắt gặp mình ngước nhìn trời đêm vào những khoảnh khắc cô đơn cực cùng, mong mỏi rồi bao giờ hình như cũng thấy đôi cánh trong suốt, nhỏ nhoi và xanh biếc nửa hư nửa thực, thoắt biến thoắt hiện giữa muôn ngàn ánh sao mênh mông. Đôi cánh không ít lần cho nàng cái cảm tưởng được quạt mát hay ấp nồng do làn sóng kì bí phát sinh từ chúng xuyên qua khoảng không mung lung, gửi đến tận thế giới cô đơn của riêng mình giữa trần thế, cũng không ít lần cái cảm tưởng dịu dàng này bị phá vỡ ngang xương bởi những tiếng chó sủa thô rợ bất thần vang lên inh ỏi từ bên kia cánh cửa ngăn.
Có lần nàng đã rủ chàng cùng ngước nhìn nhưng Vĩ bảo không hề thấy đôi cánh thiên thần ấy, chẳng chịu sẻ chia đã đành, còn “báng bổ”: Sao lúc nào cô cũng như đang sống trên mây thế!? Rồi những trách cứ, bắt bẻ lắm lúc chẳng đâu vào đâu, đôi khi hết sức vớ vẩn khiến họ dằn vặt, xúc phạm nhau không chỉ ngoài lời mà cả trong ý nghĩ thầm kín, chúng như những lỗ mội nhỏ dần hóa to xoi thủng, làm vỡ cả con đê, và vào một ngày không còn nhớ đẹp hay xấu trời, họ bị nhấn chìm dưới dòng lũ của sự đổ vỡ. Mỗi người bị cuốn đi về một phía dẫu hàng ngày vẫn vào ra đi đứng nằm ngồi dưới một mái nhà, cách nhau chỉ mỗi lằn ranh mỏng manh.
Một bà phấn son tươi rỡ, quần áo thời trang khoe chướng bỗng thân mật khoác vai Vân, ấn vào tay nàng cái bánh su sê ân cần bảo ăn đi ăn đi, bánh làm ở đây nhưng chất lượng y hệt bánh ngoài quê mình, đoạn vuốt cái nhìn mềm mượt từ đầu đến chân Vân tấm tắc:
– Ui, lâu quá mới gặp em, ngày mỗi trẻ đẹp ra.
Đảo mắt ngó quanh, ý hẳn cho không khí trong hội trường quá ồn ã ngột ngạt, người đàn bà cắp tay Vân lôi nàng ra sân.
Yên vị trên ghế đá dưới tàng hoa móng bò râm bóng xong, đôi môi bóng son nhả luôn một tràng rằng, lâu nay nghe đồn đãi lắm chuyện không vui về nàng, chưa có dịp gặp để biết hư thực ra sao. Vân suýt buột miệng bảo biết để làm gì, cảm thấy khiếm nhã đành giữ yên lưỡi trong miệng.
– Nè, tụi em đã ly thân vì những mâu thuẫn nghe đâu không lớn lắm phải không?
– Không lớn thì nhỏ, hoặc vừa! – Vân nói tưng tửng. Bà đồng hương thấp giọng:
– Nghe đâu chỉ vì cậu ấy đâm ra mê nghề nuôi và bán chó kiểng, mải chăm sóc “hàng hóa” hơn cưng chiều vợ nên mới ra nông nỗi! Còn em, ráng mãi không đẻ được thêm mụn con điền vào chỗ trống đứa đã mất, bèn trở chứng ưa mơ mộng hão huyền, đàn đúm hát hỏng, nhảy múa từ đám văn nghệ này sang gánh văn gừng nọ, đúng không nào? Ối dào, theo chị thì để cải thiện thêm ngoài đồng lương nhà giáo, nuôi chó kiểng cũng tốt thôi, hốt bạc triệu ấy chứ! Còn em sao không dành thời gian rỗi đi bỏ mối hàng hoặc dạy luyện thi gì đó có phải hay hơn không? – Chăm bẳm ngó mặt Vân không thấy dấu hiệu biểu cảm khác thường nào, bà đồng hương tỉ tê tiếp: – Thiên hạ ấy mà, người ta thêm mắm dặm muối lắm điều về tụi em nghe mắc cười lắm.
Lại thế nữa ư? Vân vờ tò mò:
– Mắm muối sao chị?
– Em không để bụng chị mới dám... nói.
Khoái cảm của “trò chơi” mang chuyện nhà người khác ra làm món nhắm đang hồi cao trào, lúc này Vân bỏ đi hẳn bà ta sẽ thất vọng? Sự nhạo báng là trạng thái bần cùng của trí tuệ, hình như Jean De La Bruyère đã phán như thế, để xem trí tuệ chị ta bần cùng tới cỡ nào! Khôi hài nhủ thầm, Vân hứa sẽ không để bụng, thậm chí không chút phiền lòng để rồi sau đó hối hận không biết để đâu cho hết.
– Nghe đâu (cơ khổ, lại nghe đâu) ờ, nghe đâu sau thủ tục ly hôn căn hộ trong khu tập thể đã được ngăn đôi, em phải mở thêm cửa hậu để ra vào. Đêm đêm nàng kéo bạn bè, học trò đến vui chơi đàn hát ầm ĩ. Trả đũa, chàng cũng làm y thế và hơn cả thế, nhậu nhẹt lu bù, rước cả gái bia ôm về đú đởn. Tệ hơn, hic hic hic mắc cười dễ sợ, chàng mê chó kiểng đến độ giữa khuya ngủ mớ sủa gâu gâu, khiến nàng đang thả mộng thơ văn, ức quá bèn cao giọng sủa theo cho bõ ghét, chỉ tội láng giềng phải lắm phen mất ngủ, đúng vậy không?
Ánh mắt nanh nọc kèm nụ cười ác hiểm chấm dứt câu nói độc địa khiến Vân giật thót, gai lạnh cả sống lưng, đứng vụt dậy, run giọng:
– Thật ra chị muốn gì ở tôi?
Người đàn bà rít khẽ qua kẽ răng:
– Bỏ ngay cái trò mỡ vờn mèo đi em ạ! Tha cho ông Tâm nhà chị đi nhá cái đồ đú đởn với lại đong đưa!
Ông Tâm nhà chị! Cái lão nhà thơ hói trán, béo ù ở đâu và bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng “khạc” ra những câu thơ hũ nút kiểu: Con chuồn chuồn đẻ bầy nòng nọc / Bơi qua giấc mơ em / Tim con nhện bị gặm nhấm bởi gã mèo mù... Cái lão ăn diện hệt gã hề thỉnh thoảng tôi vẫn gặp ở câu lạc bộ khiêu vũ ấy ư? Hóa ra lão ta thuộc loại “động vật quí hiếm” của chị ư? Suýt phá lên cười khinh mạn, nhưng rồi Vân lại cắn chặt môi lạnh lùng quay đi, thấy mình quả là lạ lùng, dám thưởng thức cảm giác bị xúc phạm một cách thú vị, trâng tráo.
Trò mỡ vờn mèo! Cánh đàn ông thích cà rỡn thường ví von rằng, vợ là “cơm” và bồ là “phở”. Khi người đàn bà không còn là “cơm” riêng của ai thì họ rất có thể trở thành “phở” của bất cứ gã đàn ông nào ư? Trong mắt lũ khác giống, họ là thứ có thể dùng theo kiểu tái nạm, tái chín hoặc tái gầu ư? Tệ hơn, theo cách nói của bà đồng hương phải gió vừa rồi thì họ là “mỡ” để vờn những chú “mèo” háo sắc. Bất công lắm thay, dưới mắt thiên hạ phần đông, bây giờ đức hạnh mình được thấy qua những mắt kính đạo đức giả lẫn thật như là đang tuột dốc sao? Nên chăng đấm ngực tự thán: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng, vì tôi đã ngốc nghếch đánh mất hạnh phúc của mình, bởi hiện tại tôi chẳng là “cơm” hay “phở” của một ai mà là “mỡ”... vờn “mèo”. Mèo nào? Mèo nhà và cả mèo mả gà đồng chăng? Cứ buông mình lao xuống vực giống cái xe tuột xích hay thắng mình dừng lại hóa thành pho tượng người đàn bà thánh thiện tội nghiệp, cô đơn không phải trên bệ đá mà trên bia miệng người đời!? Một lúc nào đó chợt nhớ đến Mạnh, Vân tưởng tượng sẽ thấy hắn bất thần xuất hiện từ một ngõ khuất hay đường quanh nào đó, hai người sẽ đến một nơi bí mật nào đó để nàng có dịp trả lời rạch ròi nỗi băn khoăn nên thắng lại hay buông thả mình! Có điều, không biết nên xếp Mạnh vào loại “mèo” nào? Hắn có hào hứng cùng mình bày trò vờn chụp hay không, hay có khi lúc này đã biến thành cái thây ma sũng rượu do đã ham vui quá chén với những người chẳng phải là đồng hương? Đại để thế, những ý nghĩ hài tếu pha lẫn chát chua, sướt mướt pha lẫn ráo hoảnh tựa bầy cá lìm kìm cứ rúc rỉa hết bề trái đến bề mặt tâm trí Vân dọc những ngả đường. Đêm hôm ấy nàng không thể nhớ mình đã thả bộ lang thang bao lâu, lúc cảm thấy chân mỏi rục mới đón taxi quay về nhà.
Mở cửa bật đèn, cái đầu tiên đập vào mắt Vân là tấm ảnh chân dung bé Linh lộng khuôn kính chưng trên bàn cạnh lọ cúc trắng, loại hoa nàng yêu thích. Nụ cười trẻ thơ và những cánh hoa tinh khiết làm lòng nàng ấm dịu hẳn. Con và hoa đến từ đâu vậy? Lẽ nào con đã quay về bằng cách đi xuyên qua cánh cửa hôn ám ấy? Cánh cửa dày nặng những hiềm khích khắc nghiệt, những hoài nghi tủn mủn, mệt mề. Cánh cửa toát giá băng đêm đêm, tỏa mùi cô đơn nồng nặc giữa ngày vắng gió... Nó đã chia cắt đôi bên một năm lẻ bốn ngày rồi cơ mà! Thoáng rã rời bởi bất chợt bắt gặp mình quan tâm đến ngày tháng quá chi li, Vân áp khuôn ảnh vào ngực, thèm khát đến cháy lòng tiếng cười nói ngây thơ, hồn nhiên của núm ruột bé bỏng. Ngoài sự chờ đợi, tiếng gõ khẽ khàng bỗng vang lên sau cánh cửa ngăn. Thoáng chốc nó được mở ra như thể đã long mất khóa đâu từ lâu. Kẻ xuất hiện ở khung cửa lâu nay bị niêm kín ấy không phải Vĩ mà là... Mạnh. Hắn cười tỉnh khô:
– Cô biến đi đâu thế? Bọn này suýt gọi điện báo công an có người mất tích.
Vờ như không hề lưu ý đến cánh cửa hôn ám đã được mở sau một năm lẻ bốn ngày chia cắt, Vân kể lại cuộc “kỳ ngộ” bà đồng hương, và những miệng tiếng bà ta đơm đặt. Mạnh so vai, cười:
– Ngỡ gì trầm trọng, cô đừng ngại sự răn đe của bà ấy, cứ tiếp tục là nguồn cảm hứng bất tận của nhà thơ nặng kí lô ấy đi, cứ mặc bầy nòng nọc của chuồn chuồn bơi qua cõi mơ cô hàng đêm. Thơ ông ấy tối mò như hũ nút, nhưng hoa hồng vườn nhà ổng phải nói là tuyệt đẹp. Thế từ vài tháng nay cô có còn nghe “gâu gâu” bên buồng “ông bạn láng giềng” không?
Vân lắc đầu. Mạnh vờ xụ mặt, thấp giọng:
– Non tay nghề, lại bị một cú lừa ngoạn mục, sạt nghiệp rồi, thầy bảo nếu cô... đại xá, từ nay xin chừa, dứt khoát ném mộng kinh doanh ra khỏi cửa.
Đáp lại giọng đùa tếu của Mạnh, cô gái vụt xuất hiện. Chính là cô nàng từng ngồi sóng vai Vĩ trong hội trường. Cô lễ phép chào Vân, âu yếm vỗ vai Mạnh:
– Khuya quá rồi, về để thầy cô nghỉ chứ anh! – Đoạn quay sang Vân hóm hỉnh nói: – Thầy nhắn đang đói bụng, nếu có thể cô nấu giùm cho một tô mì ăn liền như ngày... xưa, mỗi lúc thầy chấm bài hay soạn bài phải thức khuya.
Ngày xưa... Thuở còn rất hàn vi, món mì tuy rẻ tiền nhưng bé Linh thường khen ngon. Ôi, đứa con bất hạnh, núm ruột nhỏ nhoi, thiên thần bé bỏng của mẹ! Giờ này ở một tinh cầu xa lạ nào đó con thức ngủ ra sao? Phải chi ông bác sĩ trực cấp cứu đêm hôm ấy không say rượu, vô trách nhiệm thì chứng viêm màng não ác nghiệt đã được phát hiện kịp lúc, con đâu đến nỗi phải xa lìa giữa tuổi lên ba!
Mạnh và cô bạn của hắn tan biến vào đêm lúc nào chẳng hay. Khung cửa mở được lấp đầy bởi vóc dáng cao lớn dềnh dàng của người cha. Từ khuôn ảnh vẫn ấp yêu trên ngực người mẹ mơ hồ có đôi cánh nhỏ trong suốt, biếc xanh nhẹ nhàng bay lên, mỏng manh như là khói.
Sài Gòn 2002
Sao cuối năm
Hạnh phúc không hắt bóng
Qua những lòng tối tăm.
TRƯA NẮNG GẮT, KẸT PHÀ. HÀNG CHỤC XE khách xe tải nối đuôi nhau chờ ở làn đường ưu tiên. Tảo rời xe đò vào một quán cơm bên đường. Quán thưa khách. Nghe gọi thức uống, bà chủ quán mang ra trái dừa lạnh cắm ống hút đặt lên bàn, nhìn chăm mặt khách đoạn xởi lởi kêu:
– Ủa anh Tư, anh Tư nông trại phải không?
Ngỡ ngàng rồi Tảo vụt nhớ ra: Út Chiến. Phải rồi, mắt ấy miệng ấy mũi ấy không phải nó thì là ai? Tuy cái da cái thịt có mỡ màng mũm mĩm hẳn ra, quần áo trang sức có “đô thị hóa”, nhưng cái vẻ ruộng rẫy vẫn chưa hề rời bỏ Út, lầm sao được? Hồi ấy Út Chiến khoảng mười hai mười ba tuổi, ốm nhom, tóc cháy nắng ngọn xanh ngọn đỏ, thỉnh thoảng theo cha bơi xuồng đến Nông trại – một bộ phận của khoa trồng trọt Trường đại học Cần Thơ – nơi sản xuất, nhân các giống lúa mới, nơi ông Năm Thầy Lang “làm rẽ” mươi công ruộng, kiêm nuôi vịt chạy đồng. Hễ ghé, con nhỏ không bao giờ quên đưa anh keo ớt, vì có lần đám giỗ ở nhà nghe anh Tư khen ớt nó ngâm dấm ngon “bá cháy”. Cha Út Chiến vốn gốc nông dân nòi, tự mày mò học hỏi sao đó, hồi ấy khắp vùng Ô Môn, Thốt Nốt, ngược vô tận Cờ Đỏ, Thới Lai... hễ ai bệnh, tin thuốc Nam ông đều vui lòng chữa, bốc thuốc miễn phí, mát tay tới độ bà con quen gọi là ông Năm Thầy Lang. Quí Tảo có chữ nghĩa, thỉnh thoảng ông “than vấn” anh về chuyện học hành của sắp nhỏ hoặc những chuyện vặt trong gia đình, ngoài làng xóm. Đôi khi giận lẫy, ông ở lì ngoài đồng cùng bầy vịt cả tháng không về nhà, Út Chiến phải đến “thỉnh” Tảo đi hòa giải. Nết nhậu vốn đằm, nhưng những lúc nhậu tay đôi, vô vài ly ông hay nhắc kể kỉ niệm mối tình đầu. Cô ấy làm giao liên thời Mỹ mới đổ quân vào Việt Nam, hy sinh vào một đêm bị địch phục kích ngoài vàm sông lớn. Ông bảo, những đêm sáng trăng ngồi ở chòi vịt trông ra sông thường thấy bóng cô nửa hư nửa thực ngoài ấy.
Mới đó đã ngoài mười lăm năm. Con nhỏ ruộng rẫy ngày nào nay đã là bà chủ quán thời kinh tế thị trường vàng đeo đỏ cổ đỏ tay, vẫn giữ nguyên lòng hiếu khách rất chân quê. Chẳng cần biết Tảo có gấp vội hay không, sau vài câu thăm hỏi, Út Chiến dọn ra bàn dĩa gà xé phay, bia lon đon đả mời, kéo ghế ngồi, vui vẻ cưa đôi nửa ly gọi là “mừng sức khỏe”.
– Chú Năm chắc “nghỉ hưu” rồi hả?
– Chưa anh à, ổng vẫn “kết mô đen” với bầy vịt chạy đồng.
“Kết mô đen”! Chà, con nhỏ nhiễm nặng không chỉ các thứ thời trang mà còn cả thời trang ngôn ngữ bụi bặm thị thành, còn ông Năm Thầy Lang thì vẫn thủy chung với hình sương bóng khói mối tình đầu ngoài vàm sông?! Cứ thế, câu chuyện lan man nhắc kể sang những nhân vật khác, những bạn nông dân nay kẻ còn người mất, đã khá lên hay vẫn còn nghèo túng. Bia bọt, chút duyên ngầm tản mạn từ nụ cười đến giọng hàn huyên thân tình của “nhỏ” Út, và đặc biệt món ớt ngâm dấm tuyệt ngon khiến Tảo quên mất chỗ ngồi trên chuyến xe đò lúc này hẳn đã qua sông.
– Nhắc cùng trời cuối đất, sao anh tảng lờ chị Chanti vậy? – Cái nháy mắt và ngữ điệu trách móc nhẹ nhàng chẳng làm Tảo giật mình, chỉ thoáng nghe khí hậu trong mình đổi khác. Tảo buột thốt:
– Ờ há, cô ấy giờ thế nào?
– Giàu của lẫn giàu... con. – Út Chiến đủng đỉnh nói, Tảo nửa ngờ nửa tin:
– Thật à?
Vóc người săn rám, đôi mắt đen to trên gương mặt bầu bĩnh lúc nào như cũng gửi vào thế giới cái nhìn kinh ngạc. Ngày ấy, Chanti là chiếc lá, cánh bèo trôi dạt theo dòng người tị nạn chiến tranh biên giới Tây Nam từ Campuchia sang, mồ côi cha mẹ, chẳng thân thích họ hàng, được ông Năm Thầy Lang nhận làm con nuôi. Lang thang đói rách đâu từ thuở mới lên mười, sang năm mười bảy trông cô như chưa thể bước ra khỏi tuổi thơ của mình. Tuy vậy, vốn siêng năng hoạt bát, lại biết múa dẻo hát hay, Chanti nhanh chóng chiếm được cảm tình của mọi người, thuộc loại nông dân giỏi trong đám thợ cấy gặt đến Nông trại làm việc theo thời vụ. Qua vài mùa gặt, Chanti nói khá sõi tiếng Việt, học bổ túc văn hóa ban đêm ở trường xã luôn đạt thứ hạng khá, trội hơn nhiều học viên người Việt cùng trang lứa, thoát hẳn cái vỏ “tuổi thơ vĩnh cửu”, và trở thành cô gái không chỉ khiến lũ trai bạn mà cả những cán bộ, nhân viên Nông trại cũng ưa nhìn. Các cuộc liên hoan lớn nhỏ không bao giờ vắng mặt Chanti. Vắng những màn ca múa do cô độc diễn buồn một, nhưng vắng tay nhậu Chanti thì hình như mọi người buồn tới... mười. Chanti nhậu rất “chiến”, “lượm” cánh đàn ông “bỏ túi” lúc nào chẳng hay.
Trong cánh đàn ông “dở ẹc” ấy có Tảo, kẻ được Chanti chọn làm kẻ đi về trong cõi mơ của mình. Thoạt tiên, những dấu hiệu phải lòng ở cô Tảo chẳng khó khăn gì mà không nhận ra, nhất là những lúc chỉ có hai người riêng rẽ trên cabin máy kéo, ở bến nước hay góc đồng không mông quạnh nào đó. Chanti thường bối rối lảng tránh ánh mắt và đôi bàn tay của gã đàn ông hình như lúc nào cũng hừng hực lửa thanh xuân và lửa ái tình của một con đực sặc mùi hoang dã từ bộ râu quai nón rậm rì đến vóc dạc thấp đậm, vạm vỡ. “Này Chanti, em đã nhảy qua lửa bao nhiêu lần mà nước da hồng giòn hễ thấy là muốn... cắn ngay vậy?” Giọng cợt nhả của gã làm cô khoái chí cười tít cả mắt, để rồi ngượng chín khi bàn tay rám nắng to bè nọ xòe ra táo bạo chộp lấy vai cô lắc lắc. Cho đến một ngày bàn tay không dừng lại ở vai mà rơi tuột xuống dịu dàng mân mê đôi bầu vú non tơ kèm cái hôn môi bỏng rẫy cô ngỡ dài cả thế kỷ trong lần hẹn hò thứ chín hay mười gì đó, thì họ coi như đã thuộc về nhau, nửa kín nửa hở trước mắt mọi người.
Cái vóc thon thả, nước da hồng quân của Chanti ngày mỗi đẹp dần lên trong mắt Tảo thế nào thì cũng hấp dẫn, quyến rũ như thế trong mắt thằng Tú – cậu học trò cấp 3, tim bắt đầu rậm rựt những nhịp đập mới lạ, hồn và xác bắt đầu bị giục giã, bứng rứng bởi cơ man nào là những mường tượng kì thú về chuyện chăn gối gái trai. Khi chợt phát hiện những ánh mắt khát khao rình rập, những cử chỉ thường ngày bỗng trở nên khác thường, Chanti vụt cảm thấy sự hồn nhiên vốn có giữa hai đứa nay đã không còn, nó “biến tấu” thành nỗi niềm gì đó cô chưa thể hiểu nổi. Mỗi ngày vào ra chung một mái nhà mà cả hai cứ như thể biến dần thành kẻ xa lạ. Trạng huống ấy ngầm dồn nén rồi bùng vỡ vào một chiều muộn, khi họ chống xuồng đi giăng lưới cắm câu dọc bờ kinh phía sau nhà. Xong việc, Tú rủ rê:
– Ra chợ chơi nghe Chanti!
Cô gái ái ngại nhìn mông bốn phía, bóng tối bắt đầu dâng ngút hai bờ kinh, lừ lừ bò lên từ chân ruộng, buông xuống từ trời làm lem úa cả người lẫn cảnh.
– Về thôi! – Chanti nói xuôi xị. Tú dụ khị:
– Có một chỗ chiếu phim chui... Phim mới...
– Phim “chăn nuôi” chớ gì? Đừng hòng dụ tao coi lần nữa, gớm chết!
Gã trai buông sào chống, nhẹ bước đến dí sát mũi vào bạn, nhăn nhở cười:
– Mày chỉ giỏi làm bộ, không coi phim thì... đóng phim...
– Dang ra! – Cô gái giãy nảy – Mày nốc rượu hồi nào mà sặc cả mùi hèm vậy hả?
Vừa nói Chanti vừa lẹ làng cúi thấp người xuống né cái choàng ôm sỗ sàng của Tú khiến hắn lỡ đà ngã tòm xuống mặt nước đặc sánh màu đêm đen như hắc ín. Cô gái chống sào xô nhanh mũi xuồng quay vào bờ. Tú lóp ngóp leo lên thì Chanti đã rời xuồng chạy thục mạng. Bóng tối gấp gáp, hào hễn rượt đuổi theo họ. Nhưng rồi dẫu chạy nhanh thế nào thì sau cùng Chanti cũng bị gã trai níu lấy, quật ngã, đè nghiến xuống vệ cỏ. Cô gái quẫy đạp điên cuồng, bỗng trở nên mạnh mẽ khác thường, và đã vuột thoát khỏi cơn hứng tình của gã trai sau khi để lại những vết cào tươm máu trên mặt hắn.
Ngày nọ, sau đợt nghỉ tết, Tảo về tới Nông trại đã hơn mười giờ đêm, chị y sĩ trưởng trạm xá vui vẻ “thông báo” mọi người đã bị Chanti quật “phơi xác” trên hội trường sau bữa tiệc tân niên, đoạn hất cằm ra phía bến sông:
– Nó đang ở ngoài ngoải, bữa nay con nhỏ trông lạ lắm.
Trời lấp lánh sao. Đồng ruộng âm vang tiếng ễnh ương, nhóc nhen, bù tọt hòa xướng. Chiếc xuồng ba lá trôi lặng lẽ dọc bờ kinh dưới những rặng điên điển xòe tán. Chanti ngồi đằng lái khuấy dầm, Tảo ngồi đối mặt cô phía đằng mũi, cấm cẳn lập lại câu hỏi lần thứ mười:
– Đi đâu mới được chứ!?
Chanti cười tiếng cụt:
– Về nhà em!
– Nhà em? Không còn ở với chú thím Năm sao?
– Đúng hơn là... về chòi của em, má Năm đuổi em rồi.
Chòi là cái lều chăn vịt bỏ hoang, được lợp lại lá, thưng lại vách sơ sài. Trong bóng tranh sáng tranh tối của ánh sao, lù mù những thứ vật dụng tối cần thiết cho một người sống đơn độc. Thấy Tảo cứ lóng ngóng chưa chịu bước vào, Chanti vỗ bộp lên vạt chõng tre:
– Vô đây, bộ chỗ này dơ lắm hay sao mà anh...
Tảo miễn cưỡng vào ngồi cạnh cô. Gác cằm lên đầu gối co sát ngực, cắn chùm tóc ngang miệng, Chanti đau đáu nhìn bạn, ánh nhìn kinh ngạc cố hữu pha thoáng man dại hệt mắt thú hoang. Mùi rượu phả từ người cô, tiết xuân mát mẻ vỗ về đêm quạnh vắng. Ắng lặng một lúc, Tảo bứng rứng ôm vai nàng dỗ dành:
– Thôi đừng buồn nữa, cưng! – Vừa nói Tảo vừa dịu dàng ướm tay vào ngực cô. Chanti vùng đứng lên, ôm mặt khóc nức nở, gầm rít qua nước mắt:
– Về, anh về đi! Cái giống đàn ông các người trăm thằng y như một...
Hôm sau gặp ông Năm Thầy Lang, Tảo gần xa gợi chuyện, ông buồn bã lắc đầu:
– Qua có muốn nó bỏ đi đâu. Đúng là bà Năm có... Và cả thằng Tú... chậc, thằng nhỏ y như con nghé đực tới hồi động cỡn. Lại nữa, cái tật thích đàn đúm rượu chè hát hò qua và bả rầy mãi Chanti nó hổng chịu nghe nên bả bực...
Út Chiến rót thêm bia đầy ly khách, nói vui:
– Nè, sao anh Tư bỗng ngây người ra vậy? Hồi ấy hai người yêu nhau da diết, sao anh lại đánh bài chuồn hả?
Đêm trước ngày Tảo rời Nông trại, bữa tiệc liên hoan đưa tiễn kéo dài tận nửa đêm. Như thường lệ, cánh con trai đàn ông bị Chanti “đốn ngã” bằng rượu. Sau cùng chỉ còn cô và Tảo là tương đối tỉnh táo. Chẳng phải tửu lượng của Tảo cao mà nhờ trước khi nhập tiệc Chanti đã bí mật đưa cho anh mấy lát củ thiềng liềng xắt cực mỏng, dặn lúc nào cảm thấy sắp xỉn thì bí mật cho vào miệng nhai. Tới tận lúc ấy anh mới biết “bí quyết” giúp cô thắng trong những cuộc rượu. Và, họ lại bơi xuồng ra chòi. Lần này chẳng ai rủ ai, thấy Chanti đi xuống bến, Tảo liền ngất ngưởng bước theo.
Đêm tối đen như mực. Cẩn trọng hơn lần trước, Tảo dạo đầu bằng những cử chỉ mùi mẫn điệu nghệ. Sự đòi hỏi của người đàn ông được cô gái đáp ứng với chút ngượng ngùng rồi dần sôi nổi trong câm lặng. Họ không thốt lời nào lúc quấn quít cuồng nhiệt cũng như lúc mệt nhoài buông nhau ra. Ngoài tiếng côn trùng rả rích mỗi lúc mỗi trở nên xa vắng dưới chân ruộng, ngoài bờ kinh, âm thanh độc chiếm là tiếng kẽo kẹt của chiếc chõng tre già nua, rên lên từng hồi hối hả rồi thình lình ngã chuồi xuống nền đất khiến cả hai không thể nhịn cười, và lại tiếp tục như dây thừng quấn bện vào nhau. Sau đó hệt vừa xong bữa tiệc ngon, chàng mời nàng thêm món “tráng miệng” bằng những lời tỉ tê hứa hẹn, kèm đôi giọt nước mắt chia tay, và ngay trong đêm, Tảo rời Nông trại lén lút như kẻ chạy trốn.
– Sao anh nỡ quất ngựa... nỡ xử tệ với chị Chanti đến vậy?
– Chậc, nói cô Út thông cảm, hồi đó tôi mới cưới vợ, cuộc sống của một anh kỹ sư cơ khí phụ trách đội máy kéo của Nông trại còn rất khó khăn. – Tảo nghe giọng mình chợt úng nhão một cách ngang xương – Cô ấy bây giờ chắc yên bề rồi, phải không?
– Chanti thề không bao giờ lấy chồng, và đến giờ chị vẫn giữ đúng lời thề đó. Sau ngày anh đi, chị không làm với Nông trại nữa, trôi dạt qua nhiều nơi. Dù hận đàn ông tận xương tủy nhưng cảm thấy có lúc không thể thiếu họ, chị đẻ tới hai trai ba gái, lai Việt có, rặt Khmer có, nhưng người ta và cả bọn chúng không thể biết được ai là cha.
Còn mày, có lời thề nào để cuộc sống đỡ vô vị không hở thằng luôn tưởng mình bị trời đày bắt cô đơn, bị đời hành buộc cô độc? Tảo kẹp chặt hai tay giữa đùi, thoáng rùng mình như vụt có ngọn gió lạ nào từ đám chuyển động rùng rùng ngoài bến phà bất thần quật ngang vào. Một mối tình vỡ vụn đầu đời, và những đứa con không bao giờ biết mặt cha? Chanti có quá khắc nghiệt với bản thân mình lắm không?! Nếu có thì sự nghiệt ngã này là do, bởi, tại mày tất tần tật! Người đàn ông cắn chặt môi mình nghe đau như thể bị gọng kìm cay nghiệt nào... cắn.
SAU LẦN TÌNH CỜ GẶP LẠI ÚT CHIẾN CHỪNG nửa tháng, và sau cả tỉ lần ngập ngừng, đắn đo, băn khoăn các thứ, Tảo đi tìm Chanti.
– Nói đi Chanti, trong sắp nhỏ của em có đứa nào là... con anh không? Nghĩa là... biết đâu đêm hôm ấy... – Giọng úng nhão cảm xúc nửa van cầu nửa thắc thỏm hy vọng của người đàn ông tựa đợt sóng yếu ớt vỗ vào ghềnh đá. Người đàn bà mím môi thinh lặng với vẻ mặt thanh thản đến lạnh lùng. Vẻ mặt phong trần của một người mẹ độc thân có lúc tưởng đã bị nhấn chìm trong dòng lũ cuộc sống gạo đong từng bữa, tình tạm từng ngày. Nhưng rồi nàng đã vượt qua tất cả để trở thành bà chủ của một xưởng sản xuất ghe xuồng có tầm cỡ ở miền Tây.
– Hãy tha lỗi cho anh Chanti. Nói đi Chanti, trong sắp nhỏ của em...
Nói, nói và nói. Tấm bằng kỹ sư cơ khí đã vứt bỏ đâu đó dọc những ngày và đêm bon chen, ngỡ mình sẽ thành công nhờ tài lọc lõi trong những thứ ngành và nghề khác giàu thủ đoạn, ít tốn công sức, lợi to lộc lớn. Nhưng rồi trắng tay. Người đàn ông vạm vỡ, luôn toát vẻ hoang dã ngày nào giờ gầy đét hệt con khô khoai, hai đầu vai cao nhọn hẳn lên tạo cho anh ta cái dáng co ro lúc ngồi, cái vẻ lom khom lúc đứng. Người đàn ông đã từng trải qua hai lần ly dị vợ, không kiếm đâu ra được một mụn con tha hồ nói. Lời lẽ chân thật đan xen những ngoa ngôn lộng ngữ lộn xộn. Mặc, người đàn bà vẫn tiếp tục giữ sự câm lặng như là giữ chút phẩm hạnh nhỏ nhoi chưa bị đánh mất hoặc đánh cắp của mình.
Và, sự câm lặng ấy chỉ bị phá vỡ khi Hạnh xuất hiện. Con nhỏ chừng mười lăm mười sáu tuổi vai mang cặp sách, tay cầm bó hoa dại hái đâu đó dọc đường đi học về, bước vào phòng khách. Chanti dịu dàng vuốt tóc nó, dịu dàng nói:
– Chào khách đi con. Ngày xưa má từng mồ côi, bây giờ ổng đang mồ côi. Không biết mắc phải tội gì mà ra thân tàn ma dại vầy nè! Mắc phải vạ gì mà từ một ông kỹ sư bảnh bao, giờ hổng có nổi miếng đất cắm dùi, phải xuống ghe bán hàng rong kiêm sửa chữa máy đuôi tôm, máy bơm dãi dầu sông nước, lêu bêu y lục bình trôi...
Giọng người đàn bà mỗi lúc một mỏn dần như thể lẩm bẩm nói một mình. Con nhỏ ngơ ngác, chẳng thể hiểu mẹ nó nói gì, đôi mắt xoe tròn y hệt mắt Chanti lúc nào như cũng gửi vào thế giới cái nhìn kinh ngạc.
NƯỚC TRONG VẮT, NẮNG TỪ TRỜI CAO BỦA xuống ngàn tia kiếm sáng, cả hai bơi lội thỏa thích trong “trang phục cổ xưa” của ông Adam và bà Eve. Theo từng động tác sải tay uốn lưng mềm mại, cặp vú màu nâu hồng có núm đỏ tựa đôi trái dừa lửa ngộ nghĩnh thoắt ẩn thoắt hiện giữa làn sóng xanh. Chanti bơi mải miết, Tảo bơi bên cạnh, vừa bơi vừa chiêm ngắm nàng và, lúc chợt nhận ra hai người không còn ở dòng kinh đào quen thuộc mà đã ra tới biển, Chanti bị một cuộn sóng cuốn mất hút vào miệng một con cá mập lớn thì Tảo choàng thức, ngồi bật dậy, xuất hạn dầm mình, thực mà ngỡ như mơ thấy con Hạnh ngồi dưới vầng sáng ngọn đèn thắp bằng ắc qui tỏa xuống từ vòm mui đang chăm chú lấy các loại trái cây từ bọc ni–lông ra bày mâm ngũ quả.
– Tía dậy rồi sao? – Nó nói, mắt vẫn không rời mâm trái cây được sắp xếp một cách khéo léo – Con tưởng tía ngủ tới sang năm chớ!
– Sang năm à? – Tảo bửng lửng.
– Sắp giao thừa, bộ tía hổng tính đón năm mới, rước ông bà về ăn tết sao?
Chậm rãi, tỉnh tuồng, cứ như sự có mặt của nó trong cái ghe hàng rong chật chội, nghèo nàn này là chuyện tất nhiên, chẳng có gì để ông chủ ghe phải bận lòng. Tảo ráng bắt chước sự tỉnh tuồng của nó:
– Con đến lúc nào vậy? Sao biết tía ở đây mà...
Bưng mâm trái cây đặt lên cái trang thờ cũ kỹ, ám khói lưu cữu treo bên mui, đoạn Hạnh ngồi bó gối, ngó mông lên bầu trời cuối năm đầy sao.
– Má nói ngày xửa ngày xưa má và tía đã tắm chung ở dòng kinh này không biết là bao nhiêu lần.
– Ờ!
– Ông Năm Thầy Lang còn ở đây không tía?
– Không, ổng dọn ra chợ Thới Lai từ lâu lắm rồi.
– Cái Nông trại má hay nhắc kể cũng biến luôn sao?
– Biến, giờ đất này thuộc Viện Lúa đồng bằng.
– Sao tía còn quay về làm gì?
– Ờ thì...
Mới đó mà đã thành... ngày xửa ngày xưa. Bây giờ và cả sau này chẳng còn ai nhớ, rằng một thời họ từng chia sẻ nóng lạnh với đất trời ở đây. Để có nhiều dòng lúa mới kháng rầy, năng suất cao, gần năm mươi con người ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Công việc đồng áng cực thân nhưng tâm hồn thanh thản biết chừng nào. Sự thanh thản hồi ấy tự nhiên như khí trời, sau này mới biết nó quí hiếm, khó tìm kiếm và đắt giá hơn cả vàng ròng.
Sau bao vòng xoáy gió bụi dọc đời, thỉnh thoảng gã đàn ông cô độc – bị đời quăng quật từ thất bại ê chề này đến thất bại đau đớn khác đâm ra thất vọng về mình, tự trói mình vào cuộc sống lênh đênh sông nước – cảm thấy khát thanh thản lại tìm về chốn cũ, dẫu chẳng còn cái bến cũ nào để có thể soi thấy chút bóng ngày xưa, chẳng còn bất cứ đám mây, cánh chim hay cánh bèo nào quen thuộc để hàn huyên! Không, Tảo không thuộc típ lãng mạn như thế, đơn giản, thỉnh thoảng thấy nhớ thì tìm về cái nơi mình đã từng sống qua một thời đẹp nhất. Về neo ghe ở quãng kinh vắng, tha hồ để lòng bị độc chiếm bởi hiu quạnh, nhắm mắt và thấy ông Năm Thầy Lang, những cô cậu thợ cày thợ cấy, những đêm vui suốt sáng, những bữa nhậu tàn canh, và dĩ nhiên thấy rõ nhất vẫn là mối tình lửa rơm với cô nông dân chân đất. Mối tình ngỡ chỉ thoáng chốc so với trăm năm, bất chợt trở thành mối bận tâm từ khi tình cờ gặp lại Út Chiến ở bến bắc Cần Thơ hôm ấy. Lúc này đứa con ngoài giá thú bất ngờ xuất hiện, tiếng “tía” hồn nhiên thốt từ miệng nó nghe sao ấm lòng lạ! Vòng xoáy mới lại mở ra, liệu có êm ả hơn vòng xoáy “khốc liệt” trước đây; hôm gặp lại má nó?
– Bộ con lạ lắm hay sao mà tía nhìn lom lom vậy? – Con nhỏ nheo mắt cười. Tảo nói:
– À, coi con có cái gì giống tía không!
– Má nói cái miệng con đẹp nhứt vì giống tía. Tía có thấy vậy không?
– May mà con chỉ giống tía có chừng đó.
– Má nói tía đang... hận đời.
– Tía bị đời hận thì đúng hơn.
– Là sao?
– Lớn lên con sẽ hiểu.
– Má có lúc nào hận đời hay đời hận như tía không?
– Không, má con bao giờ cũng yêu đời, cũng giỏi giang hơn tía.
– Má nhắn tía đừng có hận đời nữa, bán ghe lên phố mà ở tía à.
– Ở đâu, ở với ai? Tía y giề lục bình mồ côi, quen trôi nổi mình ên mất rồi.
– Má nói nếu tía thích má sẽ tìm vợ cho tía.
Tảo cười, thoạt tiên lục khục trong cổ rồi bật thành tiếng khô khốc:
– Bả đùa đó thôi!
– Đùa hay không con không biết, chỉ biết hôm gặp tía xong má khóc. Con thắc mắc, má nói trống lổng, thấy người khác thân tàn ma dại má hổng đành.
Người đàn ông như bất thần nuốt phải gậy, ngây người nghe cảm giác xấu hổ mưng tràn. Người đàn bà độc thân dẫu có tới năm đứa con khác cha, bây giờ tự cho mình ở địa vị cao hơn, hạ cố dòm xuống rủ lòng thương hại gã tình cũ từng trải qua hai đời vợ chẳng có được mống con nào! Cố nuốt chút gì nghèn nghẹn vừa dâng lên cổ, Tảo nghe giọng mình như giọng của đứa phải gió nào khác:
– Hạnh này, con tự ý đi tìm tía hay...
Con nhỏ nhìn xoáy vào mắt người đàn ông xa lạ – giờ chỉ mới hơi quen – cách đây chưa lâu bỗng hóa ra là... tía nó, nói vui:
– Ngộ lắm, tía! Không biết nghĩ thế nào mà bây giờ má hổng còn giấu tông tích những ông tía của mấy chị em con nữa. Bốn đứa em con đã được giao tận nơi, còn má ăn tết với cô Út Chiến trên bắc Cần Thơ, hẹn tới mồng hai tất cả cùng quay về nhà ăn tết tiếp.
– Quay về à? Cả mấy ông chồng hờ của má con, và... tía luôn sao? Ôi Chanti, em độ lượng, khoan dung như Bồ tát.
Hạnh lắc đầu:
– Má nói chỉ có tụi con quay về thôi, còn các ông tía không được bước qua cửa, ai cãi lời, léng phéng là má... chém!
Tảo cười, con nhỏ không cười. Ngọn gió cuối năm luồn qua lòng ghe hẹp thổi theo vào ít ánh sao khiến họ cùng cảm thấy lạnh. Người đàn ông sông nước ngồi xích lại gần con, nắm chặt đôi bàn tay mềm mại trong đôi bàn tay to bè, chai sần của mình, miệng mỉm cười mà mắt nhòa lệ. Ôi Chanti, ngàn lần anh rất đáng được chết dưới ngọn đao hay lưỡi phảng mài sắc bằng sự độ lượng và khoan dung Bồ tát của em!