Giấc mơ Trung Quốc - Chương 06 - Phần 05

IV. Mỹ ngăn chặn sự cạnh tranh của Liên Xô như thế nào

Nếu nói rằng việc Mỹ ngăn chặn Nhật là sự ngăn chặn “bên trong mặt trận”, là sự ngăn chặn nội bộ đồng minh, thế thì việc Mỹ ngăn chặn Liên Xô là sự ngăn chặn “bên ngoài mặt trận”, ngăn chặn đối thủ bên ngoài khối đồng minh của Mỹ. Hơn nữa chiến dịch này là một chiến dịch “marathon” kéo dài gần nửa thế kỷ.

Chiến tranh lạnh là phát minh chiến lược của Mỹ

Khái niệm chiến tranh lạnh là do người Mỹ sáng tạo và đưa ra. Thượng nghị sĩ Mỹ Bernard Baruch trong một bài nói chuyện hôm 16 tháng 4 năm 1947 lần đầu tiên đề xuất khái niệm “chiến tranh lạnh”. Nhà bình luận nổi tiếng người Mỹ Lippmann đã viết một loạt bài về vấn đề này. Từ đó trở đi khái niệm “chiến tranh lạnh” được lưu hành và sử dụng rộng rãi. “Chiến tranh lạnh” trở thành danh từ chuyên dùng trong chính sách của Mỹ sau chiến tranh, nhất là trong chính sách đối với Liên Xô, nó cũng được cộng đồng quốc tế tán đồng và tiếp thu rộng rãi.

“Chiến tranh lạnh” là gì? Đâu là định nghĩa của “chiến tranh lạnh”. Có ba loại định nghĩa:

Một là định nghĩa của Liên Xô; họ cho rằng chiến tranh lạnh là chính sách Mỹ và các nước đế quốc khác áp dụng để đối phó với các nước xã hội chủ nghĩa, trước tiên là Liên Xô, trong thời kỳ sau Thế chiến II, từ thập niên 40 tới thập niên 60 thế kỷ XX, nhằm mục đích huỷ hoại thành quả thắng lợi của Thế chiến II, tước đoạt thành quả thắng lợi của nhân dân Liên Xô và các lực lượng hòa bình và dân chủ thế giới. Chiến tranh lạnh phản ánh lợi ích của giai cấp tư sản độc quyền phản động nhất ở phương Tây, đặc biệt là giai cấp tư sản độc quyền Mỹ. Chiến tranh lạnh là sự đối kháng lợi ích địa chính trị giữa hai tập đoàn lớn quân sự - chính trị. Mâu thuẫn giữa hai tập đoàn này biểu hiện nổi bật nhất trên vấn đề tập đoàn phương Tây phân biệt đối xử với Liên Xô và các nước đồng minh của Liên Xô về kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật, và có ý định kiềm chế các nước này.

Hai là định nghĩa của Mỹ về chiến tranh lạnh. Các học giả Mỹ cho rằng chiến tranh lạnh là sự đối kháng toàn diện (trừ xung đột quân sự trực tiếp) giữa các quốc gia có xung đột lợi ích, là một trạng thái đối lập giữa phương Đông với phương Tây.

Ba là định nghĩa của các học giả Trung Quốc. Họ cho rằng chiến tranh lạnh là một loại hiện tượng đối kháng toàn diện giữa phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu với phe phương Tây do Mỹ đứng đầu trong thời kỳ sau Thế chiến II. Trừ xung đột quân sự trực tiếp ra, sự đối kháng đó bao trùm tất cả mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế và hình thái ý thức, là một trạng thái hòa bình ẩn chứa nguy cơ chiến tranh, cũng là một loại chiến tranh biểu hiện bằng hình thái hòa bình.

“Chiến tranh lạnh” bắt đầu từ bao giờ? Trên vấn đề này hai vai chính tiến hành chiến tranh lạnh mỗi kẻ nói một khác. Tại Liên Xô cũ và nước Nga chủ yếu có ba quan điểm: một là lấy Cách mạng Tháng Mười làm khởi điểm. Hai là lấy sự kiện Mỹ ném bom nguyên tử làm khởi điểm, cho rằng tháng 8 năm 1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử, nước bị ném bom là Nhật Bản, nước rung động là Liên Xô, toàn thế giới thì sợ hãi; Mỹ không những giành được thắng lợi cuối cùng trong tác chiến chống Nhật Bản mà còn thành công trong việc phô diễn sức mạnh với Liên Xô, qua đó dẫn đến sự bùng nổ chiến tranh lạnh. Ba là lấy ngày ra đời chủ thuyết Truman làm khởi điểm.

Tại Mỹ có năm quan điểm về thời điểm bắt đầu chiến tranh lạnh: 1. Chiến tranh lạnh là mô hình cơ bản của mối quan hệ Mỹ - Liên Xô, chiến tranh lạnh bắt đầu từ sau Thế chiến II. Căn cứ theo các hiệp định ký trong thời chiến, hai nước Liên Xô và Mỹ bố trí phạm vi thế lực chính trị của mình. Thời gian 1947 - 1948 là thời khắc quan trọng, các tiêu chí chủ yếu là việc thành lập Cục Tình báo trung ương CIA Mỹ, cuộc khủng hoảng Berlin, sự kiện Tháng Hai Tiệp Khắc, chiến tranh Triều Tiên. 2. Chiến tranh lạnh là sự đối lập và cạnh tranh về hình thái ý thức, thời gian 1917 - 1920 là lựa chọn tốt nhất - Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xô Viết rút ra khỏi chiến tranh, can thiệp vũ trang, sự thành lập Quốc tế Cộng sản. 3. Chiến tranh lạnh bắt đầu trong thời gian giữa hai cuộc Thế chiến. 4. Chiến tranh lạnh bắt đầu từ Thế chiến II. 5. Chiến tranh lạnh bắt đầu từ tháng 8 năm 1945 khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống đất Nhật Bản.

Các chuyên gia và học giả Trung Quốc cho rằng lý thuyết ngăn chặn do Kennan đề xuất đã cung cấp cho nước Mỹ cơ sở lý luận tư tưởng tư duy chiến tranh lạnh; Diễn văn “Bức màn sắt” của Churchill[8] mở màn cho chiến tranh lạnh; tiêu chí đánh dấu chiến tranh lạnh chính thức bắt đầu là sự ra đời chủ thuyết Truman. Chiến trường chủ yếu của chiến tranh lạnh là châu Âu, dần dần lan ra toàn thế giới. Vai chính trong chiến tranh lạnh là Mỹ và các nước đồng minh phương Tây, Liên Xô và các nước thành viên Khối Hiệp ước Warsawa; Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác đều bị cuốn vào cuộc chiến tranh lạnh này với mức độ khác nhau.

[8] Bức màn sắt (Iron Curtain) là từ để gọi biên giới địa lý, biên giới tư tưởng mang tính biểu tượng chia cắt châu Âu thành hai khu vực riêng từ cuối Thế chiến II đến cuối Chiến tranh lạnh (1991). Tháng 2/1946, Stalin phát biểu khẳng định chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng và chủ nghĩa tư bản sẽ bị lật đổ, Liên Xô quyết tâm thiết lập chế độ cộng sản ở Đông Âu. Trong diễn văn “Nguồn tiếp sức cho Hòa bình” tại Đại học Westminster ở Fulton, Missouri (Mỹ) ngày 5/3/1946, Winston Churchill (lúc này không còn là thủ tướng, nhưng vẫn có tiếng nói mạnh mẽ trên chính trường Anh) phản đối việc Stalin lập “Bức màn Sắt” ở Đông Âu, coi đó là biểu tượng chia cắt châu Âu. Churchill kêu gọi Mỹ ngăn chặn Stalin lôi các nước Tây Âu vào bên trong bức màn sắt.

Chiến tranh lạnh, “lạnh” ở chỗ nào?

“Chiến tranh lạnh” không có khói súng của đại chiến thế giới, không có đao kiếm vung lên; vậy cái “lạnh” của chiến tranh lạnh ở đâu? Thực ra cái “lạnh” căn bản nhất của chiến tranh lạnh là ở tư duy. Tư duy chiến tranh lạnh là một loại tư duy giết người không thấy máu, tiêu diệt một quốc gia mà không thay đổi sắc mặt. Cho nên để nhận thức cái “lạnh” của chiến tranh lạnh, điều quan trọng là cần vạch ra bản chất của tư duy chiến tranh lạnh.

Cái gọi là “tư duy chiến tranh lạnh” là ý tưởng chiến lược có tính căn bản, nguyên tắc chiến lược và phương thức chiến lược được dựa vào, được tuân theo trong cuộc chơi giành giật bá quyền thế giới giữa Mỹ và Liên Xô, là tư tưởng chỉ đạo việc tiến hành chiến tranh lạnh của hai nước này. Về bản chất, tư duy chiến tranh lạnh là một loại tư duy bá quyền. Tư duy của hai bên tiến hành chiến tranh lạnh là tư duy tranh giành bá quyền thế giới, là tư duy được tiến hành xung quanh cuộc cạnh tranh giành bá quyền thế giới.

“Tư duy chiến tranh lạnh” chủ yếu có sáu đặc điểm:

1. Tư duy rừng rú “Một núi không có hai hổ”. Đây là tư duy của chúa sơn lâm, kẻ mạnh thì làm chúa, kẻ bá chủ là vua, không cho phép xuất hiện kẻ thách thức và kẻ cạnh tranh, không ngừng tìm kiếm đối thủ để tiến đánh và ngăn chặn. Tư duy chiến tranh lạnh sợ xuất hiện thế giới đa cực, ngăn cản sự hình thành thế giới dân chủ.

2. Tư duy đặc quyền “Lấy lợi ích bá quyền làm lợi ích quốc gia”. Mỗi một quốc gia chủ quyền trong cộng đồng quốc tế đều có lợi ích quốc gia của mình. Nhưng lợi ích quốc gia không phải là tuỳ ý vô hạn độ; cũng như lãnh thổ quốc gia, lợi ích quốc gia có biên giới của mình. Nhưng tư duy chiến tranh lạnh của quốc gia tranh giành bá quyền có một đặc điểm và nội dung quan trọng là coi bá quyền thế giới là lợi ích quốc gia của mình và ra sức giành lấy, qua đó khoác lên hành động tranh giành bá quyền thế giới của mình chiếc áo “lợi ích quốc gia”, họ cũng coi việc cộng đồng quốc tế ngăn cản hành động đó là tổn hại lợi ích quốc gia của mình, từ đó ra sức đả kích các nước khác. Coi bá quyền là một loại lợi ích để tìm kiếm, coi lợi ích bá quyền là lợi ích quốc gia để giành lấy và giữ gìn, trên thực tế là dùng cách tổn hại lợi ích của toàn bộ cộng đồng quốc tế để thỏa mãn lợi ích đặc quyền của một quốc gia bá quyền và một dân tộc bá quyền.

3. Tư duy tuyệt đối “dùng nguy hiểm tuyệt đối của đối phương để thực hiện an toàn tuyệt đối của mình”. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, tư duy chiến tranh lạnh thể hiện thành “Thuyết an ninh bá quyền”, tức là cho rằng việc bảo đảm an ninh của một cường quốc thế giới chỉ có thể là bá quyền thế giới. Muốn an toàn thì phải thực hiện bá quyền thế giới, không có bá quyền thì không có an ninh. Bởi vậy, vì để giành được an ninh quốc gia thì phải giành được bá quyền thế giới. Do đó mà dốc sức tăng cường vũ trang, tiến hành chạy đua vũ trang, tìm kiếm ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, dùng cách đặt đối thủ ở vào thế nguy hiểm tuyệt đối để bảo đảm và thực hiện an ninh tuyệt đối của mình. Kết quả dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang trên toàn thế giới, làm gay gắt tình trạng căng thẳng trên thế giới, cũng tạo ra sự mất an ninh hơn nữa cho chính mình; khi rơi vào cảnh theo đuổi an ninh tuyệt đối thì càng đặt bản thân vào tình trạng mất an ninh. Bá quyền không phải là sự bảo đảm cho an ninh tuyệt đối. Xây dựng sự an ninh tuyệt đối của mình trên cơ sở sự tuyệt đối mất an ninh của kẻ khác chứ không phải là xây dựng trên cơ sở an ninh chung, tất nhiên dẫn đến hậu quả tất cả đều không có an ninh, hình thành “tình cảnh khó khăn về an ninh”.

4. Tư duy số không “Cạnh tranh không thể bảo đảm đôi bên cùng thắng”. Tư duy chiến tranh lạnh tiến hành cạnh tranh ác tính theo quy tắc luật chơi kết cục bằng số không, hai bên đối kháng đều cho rằng bên mình được tức là bên đối thủ mất. Trong mối quan hệ đôi bên, trong cuộc cạnh tranh với nhau, không thắng tức là thua, không được tức là mất. Không có kết cục hai bên cùng thắng, không có lợi ích chung.

5. Tư duy loại trừ kẻ khác “một trái đất không thể có hai chế độ”. Ngay từ tháng 3 năm 1947, Tổng thống Mỹ Truman đã tuyên bố: “Toàn thế giới nên áp dụng chế độ của Mỹ; chỉ khi nào trở thành một chế độ thế giới thì chế độ của Mỹ mới có thể tồn tại tiếp”. Theo tư duy của Truman, thế giới này chỉ có thể tồn tại một chế độ, đó là chế độ của Mỹ, các chế độ khác không có quyền sinh tồn. Tư duy chiến tranh lạnh kết án tử hình các chế độ xã hội và hình thái ý thức khác với mình. Bá quyền về hình thái ý thức của Mỹ cho rằng nền văn minh nhân quyền, dân chủ và Ki Tô giáo của Mỹ đang đứng trước mối đe dọa nghiêm trọng từ nền kinh tế kế hoạch của các nước xã hội chủ nghĩa, bọn khủng bố chuyên chế và thuyết vô thần; hai chế độ chính trị kinh tế, hai phương thức sống và hai giá trị quan thì có mối quan hệ như nước với lửa, sự đối kháng và đấu tranh giữa chúng chỉ dẫn tới kết quả có ta thì không có ngươi, trong hai chọn một. Sứ mệnh của Liên Xô là đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản Mỹ; Mỹ thì muốn quẳng chế độ Xô Viết vào sọt rác lịch sử. Tư duy chiến tranh lạnh không cho phép thế giới này xuất hiện và tồn tại tình trạng “Một trái đất hai chế độ”, “Một trái đất nhiều chế độ”; nó bóp chết sức sống đa dạng hóa của thế giới.

6. Tư duy liên minh “Không là bạn tức là thù”. Tư duy chiến tranh lạnh căn cứ theo hình thái ý thức mà nghiêm ngặt vạch đường phân giới, hai bên tự xây dựng chiến lũy của mình, thực hành chiến lược đồng minh, tìm kiếm ưu thế địa chính trị, tiến hành sự đối kháng tập đoàn, đem cả thế giới đưa vào hệ thống chiến tranh lạnh, làm cho cả thế giới bị đám mây chiến tranh lạnh trùm lấy.

Chiến tranh lạnh “chiến” vì cái gì

Người Mỹ nói: “Chiến tranh lạnh là cuộc chiến giành quyền lãnh đạo thế giới”.

Giáo sư Warren Cohen, nhà lịch sử lỗi lạc của nước Mỹ nói:

“Vì sao vào cuối thập niên 40 thế kỷ XX, Mỹ và Liên Xô áp dụng thái độ đe dọa lẫn nhau? Vì sao thái độ đó có thể kéo dài đến cuối thập niên 80 thế kỷ XX? Chúng ta có thể dùng ba loại phương pháp nghiên cứu đan xen nhau để tìm ra được đáp án trên ba mặt”.

“Trước tiên, người lãnh đạo Mỹ tiếp nhận trách nhiệm nước lớn mà mọi người đều nhìn vào, lãnh đạo thế giới và sáng tạo một trật tự thế giới mới. Thứ hai, đặc tính của hai nước Mỹ và Liên Xô đã tạo ra hành vi quá đáng của xã hội công dân một nước (quốc gia thế mạnh của Mỹ và mô hình chính phủ thế yếu) và một nước khác lại không tồn tại kiểu xã hội công dân ấy (thể chế chính trị Stalin cực quyền cao độ). Thứ ba là môi trường an ninh”.

“Nếu nước Mỹ không có quyết tâm lãnh đạo thế giới thì khó tưởng tượng có chuyện xuất hiện chiến tranh lạnh. Nếu Mỹ lựa chọn quan niệm “chủ nghĩa châu lục” (hướng về chính sách hợp tác chính trị, kinh tế với các nước cùng châu Mỹ và có tính chất bài xích các châu lục khác) do một số nhà trí thức đề xướng hồi thập niên 30 thế kỷ XX, hoặc chính sách tự cấp tự túc do một số nhà trí thức khác hồi thập niên 60 thế kỷ XX cực lực chủ trương, thì động lực phát triển thế giới sau chiến tranh sẽ khác đi rất nhiều. Song le các nhà lãnh đạo Mỹ trong thời gian một đời người đều rút ra kết luận như sau: chính là do Mỹ trốn tránh trách nhiệm lãnh đạo thế giới sau Thế chiến I nên mới tạo điều kiện cho Adolf Hitler và bọn quân phiệt Nhật Bản có dịp tạm thời hoành hành, mới làm cho cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới và Thế chiến II trở thành hiện thực. Liên tưởng tới câu cách ngôn của nhà thơ và nhà triết học Mỹ George Santayana[9] Ai quên quá khứ thì người đó nhất định sẽ giẫm lên vết xe đổ, người Mỹ đã rút ra được bài học từ các sử gia và từ giữa thập niên 40 thế kỷ XX họ ứng dụng nó vào trong thực tiễn”.

[9] Bản tiếng Trung Quốc in sai là George Tanya. Người dịch đã tra cứu lại, tên chính xác là George Santayana, 1863-1952, nhà thơ và triết gia Mỹ gốc Tây Ban Nha. Câu cách ngôn này nguyên văn là “Those who cannot remember the past are condemned to repeat it.” (Ai quên quá khứ thì sẽ bị lên án là lặp lại quá khứ) nguồn: “The Life of Reason”.

“Mục tiêu của họ là sáng tạo một trật tự thế giới có thể tăng tiến lợi ích của Mỹ. Trong trật tự thế giới đó, của cải và quyền thế của Mỹ sẽ không ngừng tăng lên, các quan niệm giá trị người Mỹ trân trọng sẽ mở rộng ra toàn thế giới”.

Trong con mắt người Mỹ, sở dĩ Adolf Hitler và bọn quân phiệt Nhật Bản có thể hoành hành, sở dĩ cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu và Thế chiến II trở thành hiện thực, bài học là ở chỗ nước Mỹ đã lẩn tránh trách nhiệm lãnh đạo thế giới, không kịp thời gánh lấy sứ mạng người lãnh đạo thế giới. Đây là một sai lầm có tính lịch sử và là điều đáng tiếc về chiến lược của nước Mỹ. Vì để không “giẫm lên vết xe đổ”, sau Thế chiến II nước Mỹ tất phải bước lên cương vị lãnh đạo thế giới và tất phải tiến hành chiến tranh lạnh với Liên Xô nhằm duy trì địa vị lãnh đạo ấy. Bởi thế theo quan điểm của người Mỹ thì chiến tranh lạnh là cuộc chiến vì quyền lãnh đạo thế giới.

Chiến tranh lạnh giữa Mỹ với Liên Xô, bất kể là cuộc đấu tranh và xung đột giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa Marx tiến hành trên tầng nấc hình thái ý thức, đấu tranh giữa chế độ chính trị kinh tế tư bản chủ nghĩa với chế độ chính trị kinh tế xã hội chủ nghĩa tiến hành trên tầng nấc chế độ xã hội, hay là cuộc chạy đua vũ trang, nhất là chạy đua vũ khí hạt nhân tiến hành nhằm giành ưu thế quân sự trên tầng nấc quân sự, thì thực chất đều là keo vật và đọ sức tiến hành xung quanh bá quyền thế giới (quyền lãnh đạo thế giới).

Chiến tranh lạnh là một cuộc chiến tranh giành bá quyền dây dưa kéo dài trong tình hình hai cường quốc thế giới hình thành sau khi kết thúc Thế chiến II - Mỹ và Liên Xô đều muốn tranh bá quyền thế giới, trong tình hình hai loại hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đều muốn chủ đạo hình thái ý thức thế giới, trong tình hình chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản đều muốn thay thế đối phương, dưới điều kiện vũ khí hạt nhân trở thành vũ khí chiến lược của cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn, lấy bá quyền thế giới làm mục tiêu, lấy thực lực quân sự làm hậu thuẫn, lấy hình thái ý thức làm ngọn cờ, lấy mặt trận, liên minh làm hình thức tổ chức.

Chiến tranh lạnh là một cuộc đấu tranh giữa ngăn chặn với chống ngăn chặn do quốc gia quán quân là Mỹ tiến hành với quốc gia á quân là Liên Xô. Chiến tranh lạnh là hệ thống quốc tế song song tồn tại đối kháng và đối thoại, cạnh tranh và hợp tác, ngăn chặn và câu kết, đấu tranh và thỏa hiệp. Nó cũng là trạng thái hòa bình ẩn chứa ý đồ giết nhau và nguy cơ chiến tranh, là chiến tranh đặc chủng tiến hành dưới hình thức hòa bình. Chiến tranh lạnh sử dụng thủ đoạn chủ yếu là chạy đua vũ trang, đấu tranh ngoại giao, sức ép kinh tế và khoa học kỹ thuật, đối lập hình thái ý thức và chiến tranh gián điệp. Nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” là sự theo đuổi bá quyền. Cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô tiến hành vì tranh giành bá quyền.

Trọng tài của “chiến tranh lạnh” là “phát triển”

Thế giới bao giờ cũng phải tiến lên phía trước. Chiến tranh lạnh giữa Mỹ với Liên Xô nhằm mục đích bá quyền thế giới mà trọng tài của chiến tranh lạnh lại là sự “phát triển”. Logic của tiến bộ lịch sử biến cuộc chiến tranh lạnh Mỹ - Liên Xô thành một cuộc cạnh tranh và ganh đua “phát triển” không thể chuyển dịch theo ý chí con người, và căn cứ theo thành tích của họ để thực hành nguyên tắc giỏi thắng kém thua.

Cuộc cạnh tranh và ganh đua phát triển quyết định thành bại của hai phía tham gia chiến tranh lạnh. Trong quá trình cạnh tranh bá quyền thế giới, hai nước Mỹ và Liên Xô vừa nói xấu nhau, công kích nhau trên vấn đề hình thái ý thức và chế độ xã hội, lại vừa mở hết tốc lực phát triển kinh tế và xã hội, rượt đuổi nhau. Mỹ tâng bốc cuộc cạnh tranh giữa hai nước là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống, đấu tranh giữa thế giới tự do với thế giới cực quyền. Mỹ tuyên bố nền văn minh vật chất trình độ cao của họ, điều kiện sinh hoạt ưu việt và phương thức hoạt động tự do của họ có sức thu hút vô song. Liên Xô thì công kích Mỹ là chủ nghĩa tư bản thối nát giãy chết. Về căn bản, sự so sánh đối chiếu hai nước Mỹ và Liên Xô quyết định tình thế cạnh tranh của hai bên, quyết định sự lên lên xuống xuống và biến đổi quanh co lắt léo trong quá trình cạnh tranh giữa hai nước.

Tuy nước Mỹ có quốc lực tổng hợp đứng đầu thế giới nhưng trong quá trình cạnh tranh Mỹ - Liên Xô, phía Mỹ từng xuất hiện tình hình thoái trào và bị động. Thập niên 70 thế kỷ XX là những năm tồi tệ trong tiến trình lịch sử của nước Mỹ, những năm tháng nảy sinh lắm vấn đề và mất lòng tin. Hồi đó kinh tế Mỹ liên tục suy thoái, số người thất nghiệp lên tới 8 triệu, nhân dân Mỹ mất lòng tin với chính phủ, họ tỏ ra bi quan với tiền đồ của mình. Các cuộc thăm dò dân ý cho thấy so với năm 1958 thì tình hình năm 1978 có biến đổi lớn: tỷ lệ người cho rằng chính phủ Mỹ chỉ phục vụ một thiểu số người giàu tăng từ 18% lên 74%; tỷ lệ người cho rằng chính phủ Mỹ không thể đưa ra phán đoán chính xác từ 25% tăng lên 70%; cho rằng chính phủ Mỹ chịu sự thống trị của những người không biết mình làm gì từ 28% tăng lên 56%. Trong Thông điệp Liên bang đầu tiên, Tổng thống Reagan thừa nhận trong số 10 người được hỏi ý kiến thì 6 người cảm thấy bi quan về tiền đồ của mình. Trong vòng sơ tuyển Tổng thống tại bang New Hampshire hồi tháng 2 năm 1980, Reagan xúc động nói: “Một số người Mỹ lớn tuổi nhớ lại thời gian trước Thế chiến II, hồi ấy người Mỹ ở mọi nơi trên thế giới, dù họ làm gì đi nữa, chỉ cần đeo chiếc huy hiệu có quốc kỳ Mỹ thì họ có thể đi bất cứ nơi nào. Ngày nay ngược lại, người Mỹ nảy sinh nguy cơ tín nhiệm và lòng tin, đánh mất sự tôn trọng của bạn bè và kẻ địch; đây thực sự là một chuyện buồn”. Phát triển là đạo lý muôn thuở, nếu bị động trong phát triển thì sẽ đánh mất sự chủ động trong cạnh tranh.