Ván bài lật ngửa - Phần VIII - Chương 01 phần 1

Phần 8 - Chương 1

Vòng hoa trước mộ

Giữa tháng chín, Chính phủ Ngô Đình Diệm tung ra một đòn ngoạn mục: chấm dứt tình trạng giới
nghiêm trên toàn quốc kể từ mười hai giờ trưa ngày 14. Thoạt nhìn, người ta có thể ngỡ
rằng nội tình Việt Nam Cộng hòa đã được ổn định. Tổng thống Ngô Đình Diệm có vẻ
lờ mờ về một hiện thực như vậy, trong khi cố vấn Ngô Đình Nhu có một cái nhìn
khác hẳn.

Nhu không rời bỏ chủ trương
cho nổ ra một cuộc đảo chính giả để quét mọi thế lực chống đối theo kế hoạch mà
anh ta đã trao đổi với Luân. Sở dĩ Nhu chưa bật đèn xanh cho Tôn Thất Đính là
vì anh ta muốn Tổng ủy tình báo đánh giá thật chặt chẽ khả năng lợi dụng của Việt
Cộng một khi Hội đồng cứu quốc do Nhu điều khiển thay cho Chính phủ. Nhu cũng
muốn chờ tin tức của Trần Lệ Xuân trong chuyến đi “giải độc,” nhất là tại Mỹ.
Theo Nhu, biện pháp cứng rắn của Việt Nam Cộng hòa phải được sự đồng tình của một
bộ phận dư luận Mỹ, đặc biệt là thượng nghị viện. Ngày 20-9, khối Á – Phi, với
lời lẽ ôn hoà, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa trình bày trước Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc vấn đề Phật giáo. Như vậy, bản thân khối Á – Phi cũng không hoàn toàn đồng
nhất với kiến nghị do Afghanistan, Nepal và Cambodia đề xuất. Trên tất cả, một
vài nguồn tin phần nào khích lệ Nhu: Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn phân hóa, một bộ
phận chống Ngô Đình Diệm, một bộ phận ủng hộ. Trước khi rời Việt Nam sang
Arabie Seoudite, giáo sư Fishell đã gặp Nhu. Hơn hai tiếng đồng hồ, Nhu
và Fishell trao đổi như hai người bạn chí thân, thông cảm và chia sẻ với
nhau mọi phấn khởi và lo lắng. Fishell không giấu giếm về sức ép ngày một tăng
trong giới cầm quyền Mỹ cho một sự thay đổi căn bản ở Nam Việt Nam mà Tổng thống
Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu là mục tiêu hàng đầu. Nhưng tay trùm CIA
nhấn mạnh rằng Tổng thống Kennedy đủ sáng suốt để thấy Ngô Đình Diệm là nhân vật
không thể thay thế được trong sự nghiệp chiến thắng Cộng sản trên bán đảo Đông
Dương và là tối cần thiết đối với sự có mặt của mặt tại khu vực Đông Nam Á. Tất
nhiên, vấn đề Phật giáo đang gây rầy rà cho Diệm, nếu Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa xử lí thật gọn vấn đề này thì quả bong bóng chống Diệm sẽ lập tức xẹp xuống
– Fishell khuyên nhủ Nhu như vậy. “Xử lí bằng cách nào, tùy các Ngài, miễn là
nó không đẻ số. Cách nào cũng phải thật gọn.” Fishell nói thêm. Nhu không hé
môi với Fishell về kế hoạch “Bravo” nhưng rõ ràng quan điểm của Fishell phù hợp
với quan điểm của Nhu.

Nhu nhận được một điện tín
của Trần Lệ Xuân gửi từ Belgrade:

“Hội nghị liên hiệp nghị sĩ
thế giới vừa bế mạc. Đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã trình bày đầy đủ, với nhiều
tài liệu và hình ảnh, về chính sách của Việt Nam Cộng hòa đối với Phật giáo
cũng như đối với tín ngưỡng và nhân quyền nói chung. Trừ các phái đoàn Cộng sản
và một số nước không Cộng sản bị thông tin xuyên tạc, hầu hết các phái đoàn đại
biểu hoan nghênh chính sách của chúng ta cũng như cám ơn đoàn đại biểu chúng ta
đã cung cấp cho họ những sự thật không thể chối cãi. Khác với nhận định khi
chúng tôi còn ở nhà, vị thế của Việt Nam Cộng hòa không vì vấn đề Phật giáo mà
lung lay. Qua hội nghị này, chúng tôi thấy rõ sự cần thiết phải gấp rút “giải độc”
dư luận chung trên thế giới. Đề nghị Chính phủ cử thêm nhiều đoàn công cán nước
ngoài, nếu được một số nhà sư có tên tuổi trong các đoàn công cán ấy thì rất có
lợi...”

Điện tín bổ sung cho cuộc
nói chuyện bằng điện thoại giữa Nhu và Lệ Xuân:

- Anh đó hả? Em đây...

- Em khỏe không?

- Khỏe. Rất khỏe! Anh thế
nào? Nên nghỉ ngơi, anh nhé. Tình hình sẽ bình thường thôi. Các con thế nào?
Anh Tổng thống khỏe không? Gia đình có việc gì mới không?

- Bình thường... Em nhớ
tranh thủ thêm nhiều bạn, cân nhắc lời lẽ. Anh mừng thấy việc làm của em thu kết
quả tốt. Anh Tổng thống cũng mừng.

- Cân nhắc lời lẽ là thế
nào? Không đánh động dư luận một cách mạnh mẽ thì không bịt mồm được bọn nói
láo và không tỉnh ngộ được bạn bè. Anh tin là em làm bất cứ việc gì cũng đều
suy xét cẩn thận. Ra ngoài em mới thấy lối nhượng bộ của chúng ta là vô cùng
tai hại. Em đã điện cho Giáo sư Bửu Hội phải phát hành một kháng thư phản đối
việc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc mang nội tình của Việt Nam Cộng hòa ra thảo luận...
Em sắp bay sang Balê. Có thể gặp Đức cha ở đó, trước khi Đức cha triều kiến
Giáo hoàng. Nếu Đức cha đồng ý em sẽ sang La Mã...

- Có nên không?

- Nên. Rất nên! Em và Lệ Thủy
sẽ thăm Hy Lạp... Mẹ con em thanh thản như người du lịch.

- Chúc em mạnh, vui... Hôn
Lệ Thủy.

- Nếu em chưa về, anh có định
sang Pháp không? Em muốn gặp anh, rất nhớ anh. Lệ Thủy nhớ ba lắm.

- Anh chưa định... công việc
còn bề bộn quá...

- Vụ “Triangle.”

- ...
Anh định nhờ anh Luân lo.

- Được lắm... Thôi, hôn anh
nhiều, hôn các con. Kính chào Tổng thống. Thăm gia đình. Anh nói giùm với Thùy
Dung: Cô ấy đừng quên điều em dặn tại sân bay... Lệ Thủy đi chơi, nó sẽ tiếc
không được nói chuyện với ba...

*

- Tôi bàn với anh một việc
tuyệt mật và thượng khẩn... – Nhu bảo Luân vào buổi sáng đầu tháng mười.

Mở đầu trịnh trọng như vậy
nhưng Nhu lại không vào đề ngay. Anh ta hớp từng hớp cà phê, mắt dò xét Luân. “Việc
gì?” Luân chưa đoán ra. Kế hoạch “Bravo?” Thì Nhu đã lật sấp lật ngửa, thậm chí
đã đưa cho Luân đọc bản thông cáo viết sẵn một khi “cuộc đảo chính” do Nhu đạo
diễn nổ ra. Hay Nhu định phái anh vào chiến khu gặp “phía bên kia?” Không chắc.
Gần đây. Nhu ít trở lại đề tài này, có vẻ anh ta cho rằng con đường thỏa hiệp với
Mặt trận Dân tộc Giải phóng mất hết các cơ sở hiện thực. Thế thì việc gì?

Tách cà phê đã cạn, Nhu ngả
người rít thuốc.

Đến mười phút trôi qua.

- Tôi suy tính kĩ rồi, chỉ
có anh gánh vác nổi việc này. Anh đừng băn khoăn tại sao tôi rào đón và ngập ngừng
trước khi nói với anh. Anh còn nhớ một lần, sau vụ Nguyễn Chánh Thi, lúc
Nolting mới sang, tôi có trao đổi với anh về tài chính của ta.

Luân nhớ, bấy giờ để trả lời
lo lắng của Luân về khả năng dùng áp lực tài chính để bóp cổ chế độ Nam Việt của
Tổng thống Diệm, Nhu bảo rằng anh ta “có cách.” “Cách” của Nhu không phải là một
khẩu hiệu chính trị. Lúc đó, Luân mơ hồ.

Nhu hỏi Luân, rất nghiêm chỉnh:

- Có khi nào anh nghe nhắc
một người thuộc dân đảo Corse, tên Francisci hay không?

- Có, ông ta là trùm buôn
nha phiến...

- Đúng rồi... Thế, có khi
nào anh nghe nói đến “Tam giác Vàng” không?

- Báo chí thế giới nhắc đến
khu vực này không chỉ một lần...

- Công việc mà tôi sắp bàn
với anh liên quan đến tên người và tên địa phương đó.

Luân bị bất ngờ. Cái mà Nhu
gọi là “tuyệt mật” và “thượng khẩn” lại liên quan đến một tên buôn lậu nha phiến
sừng sỏ và khu vực sản xuất khối lượng lớn nhất thứ
hàng hóa giết người này.

- Chắc anh phân vân. Chẳng
lẽ anh lại xếp tôi vào hạng buôn lậu nha phiến? – Nhu cười.

Luân cố kiềm chế để không
nhìn đôi môi bắt đầu thâm của Nhu. Những người chống Nhu rêu rao Nhu nghiện á
phiện từ nhiều chục năm, Luân biết không phải như vậy: Nhu mới đánh bạn với á
phù dung vài tháng nay, có thể từ sau biến cố Phật giáo ở Huế. Anh ta cần “ngoại
viện” cho bộ não thêm hưng phấn trước bao nhiêu là sự cố dồn đập, toàn là sự cố
thách thức sự tồn vong của chế độ Nam Việt. Chẳng rõ Trần Lệ Xuân phản ứng cái
tật nguy hiểm này ra sao, riêng Luân, đôi lần theo lối thông cảm bạn bè, khuyên
Nhu nên tránh hoặc nên bớt hút. Mỗi lần như vậy, Nhu chỉ thở dài. Anh ta thừa
hiểu tác hại của mỗi liều á phiện. Nhưng, - Luân đoán – anh ta quá mệt mỏi.

Dù sao, việc mà Nhu sắp
giao cho Luân không phải do nhu cầu riêng của Nhu – nó chẳng là bao; vài cân
thuốc phiện dự trữ là quá thừa...

- Chính phủ Mỹ giảm viện trợ
kinh tế cho chúng ta. Không loại trừ khả năng, đến một lúc nào đó, họ dùng viện
trợ để đánh chúng ta một cú quyết định. Tôi không muốn ngã quỵ như một tên ăn
xin, khi kẻ cho tiền khóa tủ sắt, chúng ta chỉ còn nước đầu hàng. Những chuyến
buôn nha phiến đã giúp chúng ta chống đỡ, từ năm 1962 đến nay. Chúng ta đang cần
rất nhiều tiền. Nhưng những cơ sở chế biến heroine đặt ở Bắc Lào nay không còn
an toàn vì Pathét Lào mở rộng vùng kiểm soát của họ, tình hình ở Kontum cũng
xáo trộn vì bọn Fulro lẫn lực lượng Mặt trận Giải phóng. Cơ sở chính của chúng
ta đặt trong khu tam giác Lào – Trung Quốc – Miến Điện. Cần thêm vài đường băng
cho máy bay sử dụng, cần thêm một số máy móc cho xưởng chế biến mở rộng. Anh
cũng biết, “Tam giác Vàng” luôn luôn rất an ninh bởi nó là vùng biên giới, thường
hứng chịu các cuộc hành quân của nước này hay nước kia – kì thật, lực lượng
biên phòng của mỗi nước không nhượng cho ai giữ độc quyền sản xuất heroine. Còn
tàn quân của Tưởng Giới Thạch, còn các nhóm li khai và nhất là còn sự can thiệp
ráo tiết của tổ chức buôn lậu nha phiến quốc tế mà tổng hành dinh đặt tại
Bangkok. Anh cần đến đó một lần để đánh giá khả năng
phòng thủ và anh cho tôi biết kế hoạch tăng cường lực lượng vũ trang của chúng
ta. Tôi đặt Thiếu tá Nguyễn Thuần dưới quyền anh. Thiếu tá Thuần khá thành thạo vì trước
đây anh ta thực hiện chỉ thị của Trần Kim Tuyến. Thuần là người có thể tin cậy
được, nhưng cần phải giấu kín với Nguyễn Cao Kỳ... Tôi nói trước với anh: chuyến
đi khá nguy hiểm và, tôi chỉ yêu cầu anh mỗi việc nghiên cứu cách bố phòng.

Do đó, thời gian cũng eo hẹp
– anh chỉ được tối đa là mười ngày để lập một tờ trình, kể cả ngày đi và ngày về.
Mọi chi tiết, thiếu tá Thuần sẽ báo cáo với anh...

“Nguyễn Thuần? À, gã sĩ
quan không quân gặp Dung ở biệt điện Buôn Mê Thuột, trước vụ ám sát hụt Ngô
Đình Diệm...” - Luân nhớ lại. - “Hình như anh ta gọi điện thoại xin lỗi Dung,
nói rằng anh ta ‘làm quen’ sỗ sàng với Dung không do
ý riêng mà do ‘một mệnh lệnh’ từ đâu đó...

Thôi được, bây giờ là việc
thi hành ý kiến của Nhu... Ta sẽ có lợi gì? Chẳng lẽ chuyển nghề thành ‘nhân
viên kinh tài’ cho Diệm – Nhu? Và ‘cách’ Nhu giãy giụa khỏi thòng lọng
tài chính của Mỹ là đây!

Còn gã Trần Kim Tuyến nữa,
trong các thứ hắn ‘sang sổ’ cho mình, tuyệt nhiên
không nhắc một lời về vụ pha phiến này... Gã lại đang ở Bangkok, tổng hành dinh
của các ‘băng’ buôn lậu... Có thể do đó mà Nhu sợ?...”

- Cần chăng một tổ chức như
GMCA của Roger Triquier? - Luân hỏi.

GMCA, chữ tắt của Groupe
Mobile des Commandos Aeroportés – Nhóm biệt kích không vận cơ động.

- Chà! Anh thông thạo dữ! –
Nhu kinh ngạc ngó Luân – Có thể không cần đến mức đó...

- Lúc tôi làm trưởng sở mật
vụ kháng chiến, tên tuổi của viên Thiếu tá Roger Trinquier
cùng đội biệt kích của y thường xuất hiện trên các bản tin riêng. Y tuyển một
lính sơn cước và hoạt động trong phạm vi “xứ Thái tự trị” ở Tây Bắc Việt và Bắc
Lào, nơi sản xuất một lượng á phiện đáng kể...

- Tình hình thay đổi, đã
thay đổi nhiều! – Nhu thở dài – Hơn mười năm rồi, còn gì! Trinquier
vẫy vùng được nhờ địa bàn thuộc quân đội Pháp kiểm soát. Chắc anh thấy rõ, quân
đội Pháp chết sống bám Nà Sản, Xiêng Khoảng, Điện Biên Phủ... không đơn thuần
vì quan điểm chiến lược. Á phiện giữ một tỉ lệ không nhỏ trong quyết định của
người Pháp...

Nhu bộc lộ một luyến tiếc:
Khu “Tam giác Vàng” nằm ngoài khả năng khống chế của Chính phủ Sài Gòn. Lúc bấy
giờ, đầu những năm 1950 Trinquier thu á phiện sống, thường vào tháng tư,
đưa về Vũng Tàu bằng máy bay quân sự. Từ Vũng Tàu, á phiện chuyển thẳng theo đường
sông Soài Rạp hoặc đường bộ giao cho Bình Xuyên. Sĩ quan tình báo Savani chịu
trách nhiệm kiểm tra các mối phân phối của Bình Xuyên chủ yếu qua Ly Kai và các
nhóm người Hoa Chợ Lớn. Riêng Bảy Viễn, hắn có nhiều cơ sở chế biến đặt ngay
trung tâm thành phố, tất nhiên ngụy trang với một cái tên nào đó. Thật sự, cả Bảo
Đại lẫn Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đều chia chác với Bảy Viễn, số tiền lên đến
hàng trăm nghìn dollar... Sau này, những tên Pháp có máu mặt giành phần với số
người Hoa – như Franchini, chủ khách sạn lớn Continetal: á phiện sơ chế hoặc
tinh luyện tìm được nơi tiêu thụ quan trọng là các hải cảng trên nước Pháp.

Pháp rút khỏi Đông Dương đồng
nghĩa với sự cáo chung của đường dây buôn á phiện so Pháp bảo trợ. Nhu và Tuyến
không bỏ lỡ cơ hội Trinquier, Franchini, Bảy Viễn bị tước đoạt mọi thứ và thay
vào đó bằng bộ máy: vẫn những người Pháp dày dạn kinh nghiệm thu mua, vận chuyển
và chế biến mà xưa kia vốn là đàn em; vẫn những người Hoa đông khách hàng.
Francisci và Mã Tuyên nổi lên như “người hùng” của ngành buôn lậu á phiện, bây
giờ, do Ngô Đình Nhu bảo trợ.

Tàn dư của Trinquier chưa
chịu bó tay. Nhưng Francisci thừa sức cho xộ khám hoặc tán gia bại sản những
tên dám léo hánh đến “vương quốc á phiện” của anh ta như Enjahal, Labenski...

- Anh lưu ý thêm sức chở,
máy bay hai động cơ chỉ có thể mang non một tấn á phiện sống. Ít quá... Vả lại,
từ “Tam giác Vàng” về Sài Gòn, gần hàng nghìn cây số đường bay. Chúng ta bắt buộc
phải bay trên không phận Lào đến Hạ Lào mới chuyển hướng sang cao nguyên Trung
phần... Không thể không tiếp nhiên liệu ở sân bay Vattay Vientiane, sân bay
Savanakhet, sân bay Liên Khương Đà Lạt... Hiện nay, còn có thể thả dù trên vịnh
Thái Lan song đường bay khó đảm bảo, dễ lộ bí mật nếu ta dùng Phú Quốc làm trạm.
Không thể thả dù ở biển Đông, thả gần bờ thì đụng thuyền đánh cá, thả ngoài
khơi thì đụng tàu tuần của Mỹ. Nhất thiết “hàng” phải xuống sân bay Biên Hòa.
Đáng tiếc căn cứ Sa Thầy đành đóng cửa nay mai, ta không thể chuyển tải được bằng
trực thăng ra vịnh Cam Ranh. Cũng có vài đường băng đón máy bay hai động cơ,
nhưng phần lớn của các đồn điền cao su Pháp... Tôi đã nghĩ đến vùng biên giới
Nam phần giáp Cambốt đó là một chuyện sắp tới... Gọn hơn hết, ta chiết suất
morphine, heroine tại “Tam giác Vàng,” trọng tải nhẹ...

- Francisci liên quan như
thế nào với Savani? - Luân hỏi.

- Cho tới bây giờ, không thấy
dấu hiệu về sự liên quan đó... Chắc anh ngại Mai Hữu Xuân? Francisci ít về Sài
Gòn và tôi có tài liệu về thái độ cay cú của Mai Hữu Xuân với Francisci... Xuân
là bạn thân của Franchini.

- Nguyễn Cao Kỳ?

- Hắn từng được ông Tuyến
giao vận chuyển “hàng.” Hắn và bạn bè của hắn như Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc
Loan nắm khá sâu công việc... Anh nên cẩn thận.

Nhu căn dặn Luân y như giao
cho anh một kế hoạch quan trọng, một chiến dịch cỡ “Bravo” chẳng hạn.

Nhìn đối thủ của mình, Luân
man mác trong lòng niềm thương hại: Nhà tư tưởng, nhà chiến lược của triều đình
họ Ngô dồn tâm trí cho một cái râu ria của đại cuộc, tầm nhìn xa của anh ta chỉ
đóng khung trong tuyến buôn lậu nha phiến và khói thuốc phiện quả rất giống lớp
sương mù huyễn hoặc Nhu đến độ anh ta thổi phồng những cân bạch phiến lên mức cứu
tinh toàn chế độ...

- Giá mà “Tam giác Vàng” nằm
ở một nơi như Xuân Lộc! – Nhu nói giọng tiếc rẻ. Luân cho rằng Nhu than thở về
sự cách trở đối với nguồn tài chính mà anh ta cần. Nhưng, không phải, bởi Nhu
nói tiếp:

- “Tam giác Vàng” ở Xuân Lộc,
ở Hớn Quản, ở Bảo Lộc... Chúng ta sẽ xây dựng chiến khu tại một nơi tuyệt vời
như vậy!

Luân cố giấu nụ cười mỉa.
Nhu dự kiến cả chiến khu, thật trớ trêu, chiến khu mà Nhu tưởng tượng dính dáng
với những cây anh túc cho chất nhựa, ru con người những phút lâng lâng quên đời,
hoặc – trộn với giấm thanh – đẩy vào cái chết vô phương cứu chữa...

*

AI ĐÃ ĐẨY TỔNG THỐNG
KENNEDY VÀO CON ĐƯỜNG BẾ TẮC Ở VIỆT NAM

(Frank Connif – New York
American Journal).

Chúng ta đang mắc vào mớ chỉ
rối ở Việt Nam và có lẽ đã đến lúc cần xem xét vì đâu chúng ta lại bị sa trong
vũng lầy đó.

Tổng thống Kennedy dường
như đã bảo đảm cho Bộ Ngoại giao thì hành một kế hoạch để phá hoại một Chính phủ
đồng minh đang chiến đấu chống Cộng sản, bằng những mưu kế nửa mùa.

Không một ai đầy đủ lí trí
lại dám chê trách gì Tổng thống Kennedy về việc để mất nước Cuba lọt vào tay Cộng
sản bởi vì vụ ấy đã xảy ra từ thời Tổng thống Eisenhower với sự góp sức của hệ
thống tin tức của nó: tờ New York Times. Cũng trong tình trạng này, sẽ không một
ai có thể tha thứ cho Tổng thống Kennedy nếu ông bắt chước những hành động
trong thời Eisenhower bằng cách chấp thuận việc lật đổ một Chính phủ đã từng
chiến đấu chống Cộng trong chín năm trường như Eisenhower đã bỏ rơi Batista vào
lúc nguy nan nhất.

Việt Nam là một món quà của
tờ New York Times tặng Tổng thống Kennedy thuộc loại một trái bom chính trị nổ
chậm chẳng khác nào trước đây họ tặng Cuba cho Tổng thống Eisenhower.

Hơn nữa, không căn cứ vào
những bài tường thuật mà chỉ vào quyết định của những bài bình luận, tờ New
York Times đã biến đổi một cuộc tranh chấp chính trị nội bộ thành một cuộc chiến
tranh giữa những người Công giáo và những người Phật giáo. Quả thật không cần
ai vẽ cho ông Kennedy mới biết về ảnh hưởng chính trị của lời phỏng định hoàn
toàn sai lầm đó...

Cần phải nhắc rằng, ngày
8-5-1963, cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và các tín đồ Phật giáo
bùng nổ thì mười ngày sau, Tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Hội đồng Tham
mưu Liên quân Hoa Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn dành cho tập đoàn báo
chí Hearst: Tôi có thể nói là cuộc chiến tranh ấy đang diễn tiến khá tốt đẹp;
chúng tôi đang đạt được những thắng lợi thật sự, từng tháng một...

Giữa lúc đó thì việc gì đã
xảy ra? Tổng hội Phật giáo tiếp tục hoạt động bí mật chống Chính phủ của Tổng
thống Ngô Đình Diệm, gây ra một cuộc tuyên truyền phá hoại mà không một Chính
phủ nào có thể tha thứ được trong thời kì chiến tranh.

Bây giờ thì tờ New York
Times đòi “triệt hạ” Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ a dua theo
luận điệu đó và Tổng thống Kennedy đã nghe họ. Nhưng chỉ mới đây thôi, chính trị
cố vấn quân sự mà Tổng thống Hoa Kỳ tự ý lựa chọn để mạt sát những cố gắng về
chiến tranh tại Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hai
thái độ này quả là không ăn khớp với nhau chút nào.

Quan niệm của chúng tôi là:

Nếu có bao giờ cần phải chờ
để cho bụi lắng xuống, thì đó chính là lúc mà cuộc tranh chấp giữa Tổng thống
Ngô Đình Diệm và Phật giáo đồ trở nên công khai. Chúng ta không biết rõ rệt về
những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì Tổng thống Kennedy và Bộ Ngoại giao có thể
chờ đợi cho đến khi sự thật rõ ràng ra đã. Nhưng thay vì làm như vậy, Chính phủ
một lần nữa lại ngoan ngoãn nghe theo lối bình luận của tờ New York Times. Họ sẽ
bị gậy ông đập lưng ông!

*

ĐÀI PHÁT THANH AUSTRALIA PHỎNG
VẤN TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM

(Do phóng viên phụ trách
Đông Nam Á Peter Barnett thực hiện)

HỎI: Những cuộc tranh chấp
mới đây (với Phật giáo đồ) có dấu hiệu nào tỏ ra có ảnh hưởng
đến tinh hình chính sự của miền Nam Việt Nam hay ảnh hưởng đến tinh thần của
các sĩ quan và binh sĩ hiện đang hành quân không?

ĐÁP: Có và không. Có, vì rằng
lúc đầu nhờ ở sự ngụy trang hết sức khéo léo, chiến dịch tuyên truyền do một
nhóm nhà sư phản loạn phát động đã tạo được đôi chút ảnh hưởng tại một vài thị
trấn, phần lớn là trong số các phụ nữ đã đứng tuổi và các thanh niên.

Không, vì càng ngày chiến dịch
đó càng mở rộng, những sự bịa đặt quá đáng và những mục tiêu chính trị phản quốc
gia ngày càng trở nên rõ rệt và đã gây ra một ảnh hưởng ngược lại, nghĩa là làm
cho quân đội căm phẫn và đoàn kết. Sự kiện đó đã đưa tới việc ban hành tình trạng
giới nghiêm như ông đã thấy.

Thật là một điều hết sức
đáng tiếc là báo chí ngoại quốc đã đóng một vai trò chính yếu đầu độc dư luận
thế giới, về “vụ Phật giáo” này. Thật ra vụ Phật giáo có rất ít tính cách Phật
giáo và hơn nữa còn đi ngược những quyền lợi cao cả của Phật giáo.